Con người biết tới không gian từ khá sớm, bằng chứng là mọi dân tộc đều có chung một nhận thức về ba chiều, xuất phát từ góc nhà họ ở, đi chinh phục thế giới rộng lớn rồi bay vào vũ trụ. Có lẽ khái niệm không gian Euclide ba chiều phản ảnh ước vọng chinh phục vô tận của loài người, hơn là một thực tế có bằng chứng khách quan. Nhận thức ra mặt đất chúng ta sinh sống không phải là một mặt phẳng có thể kéo dài vô tận hoặc có một vùng biên nào đó nối với bầu trời, không hề đơn giản và là một cuộc chiến thực của những người vừa có trí tuệ vừa bị dày vò bởi sự trung thực. Cả một hệ thống tín điều thể chế, quyền lực, giáo điều do Con người dựng lên để ngăn cản Con người vươn tới một một thực tế khách quan là Trái đất tròn và chuyển động xung quanh Mặt trời. Phải mất nhiều thế hệ giằng xé, con người mới xóa được một chấp niệm về không gian. Không phải ngẫu nhiên mà những khái niệm dường như chẳng liên quan gì như Tự do, Bình đẳng, Dân chủ ra đời ngay sau đó.
Thời gian khác với không gian, vì không phải là một thực thể quan sát được trực tiếp bằng các giác quan mà phải nhờ tới lý tính. Cái người ta quan sát được chính là vận động, là sự thay đổi vị trí trong không gian. Thực tế đời sống cho phép người ta tin rằng mọi vận động đều có thể đặc trưng bởi một tham số là thời gian. Mọi phép đo thời gian đều dựa trên quan sát cục bộ, thường là phải gắn với một vận động của những vật cụ thể của cát, nước hay con lắc, Nhưng người ta vẫn cho rằng thời gian là một đường thẳng vô tận duy nhất, chung và tuyệt đối cho toàn thể vũ trụ hoàn toàn không nghĩ rằng điều đó không có cơ sở gì. Thời gian là một khái niệm cục bộ hoàn toàn dựa trên lý tính, đã được gắn ngay với một đường thẳng vô tận. Ngay trong một ý tưởng tự do vĩ đại đã manh nha một tín điều cố chấp mà sau này phải đợi đến sự ra đời của những bộ óc siêu việt lóe sáng mới phá bỏ được. Gần cây cao thì cớm nắng, sau thế hệ của các vĩ nhân thì vắng bóng các nhân cách lớn, Quy luật đó dường như được khẳng định quá nhiều lần.
Việc xem không gian và thời gian là có cùng một bản chất có lẽ nhờ vào khái niệm toán học không gian nhiều chiều. Tuy nhiên, trong người Inca ở Peru, một cách bản năng, hay nhờ lương năng đặc biệt đã sớm xem không thời gian là một khái niệm thống nhất. Các triết gia Đức như I.Kant và A.Shoppenhauer đã sớm quan tâm đến ý nghĩa đặc biệt của không gian, thời gian và đặt chúng vào cùng một phạm trù. Sau đó Minkowski, Poincaré, Lorentz, Einstein đã đặt không thời gian vào một mô hình hình học-vật lý chung. Đặc biệt Einstein đã giải nghĩa được những hệ quả ghê gớm của mô hình không thời gian này đưa tới dẫn tới sự liên hệ bất ngờ và lý thú giữa năng lượng và khối lượng.
Chính sự liên hệ này đã đưa loài người tới những nguồn năng lượng khổng lồ đang điều khiển vận động không ngừng của thế giới.
Thay vì bàn luận các khái niệm triết học trừu tượng, chúng ta hãy xem việc thống nhất không gian với thời gian có những hệ quả gì. Hệ quả đầu tiên của việc thống nhất thực sự là chuyển hóa. Không có chuyển hóa toàn diện từ cả hai phía, thống nhất chỉ là hình thức. Thời gian chuyển hóa thành vận động trong không gian. Không gian lại có thể chuyển hóa thành thời gian. Việc chuyển hóa này là lựa chọn chủ quan của các chủ thể quan sát. Vì thế bản thân việc thống nhất đã mang lại đả kích nặng nề cho quan niệm tuyệt đối về thời gian. Những người chấp nhận dễ dàng một việc tưởng chừng xa thực tế vô hại, chợt nhận ra mọi tín điều bị đe dọa sụp đổ.
Nhưng liệu điều này có phải một nghịch lý tư duy, xảo biện siêu hình học, luận lý học hình thức đã chui vào phá đám, lừa dối chúng ta. Chúng ta liệu có sai lầm ở đâu? Việc chuyển hóa các chiều trong không gian là việc bình thường. Góc tường nhà của mỗi người không thể mang đi khắp nơi để rao giảng làm mực thước, cho dù người rao giảng là những ông thánh. Nhiều khi chúng ta mất phương hướng về trên dưới, phải trái, Bắc Nam Đông Tây. Càng bay vào vũ trụ, mở rộng tầm nhìn chúng ta càng thấy rõ sự chuyển hóa các chiều không thời gian là tất yếu bởi các phép quay. Phép quay thực sự là một sự nổi loạn. Quay một hồi phải trái, trên dưới lộn tùng phèo.
Trong không thời gian thống nhất bốn chiều chúng ta còn có thêm các phép quay thời gian-không gian. Thực tế đây là các phép ném (boost) biến các vật đờ đẫn đứng yên thành các hệ vận động với các vận tốc khác nhau. Einstein là người phát hiện và áp đặt nguyên lý các vận tốc đó đều giới hạn bởi vận tốc của ánh sáng và chính vì vậy đồng hồ trong các hệ quy chiếu khác nhau sẽ chạy khác nhau. Chính nhờ sự chuyển hóa trong điều kiện đặc biệt như thế dẫn tới những nghịch lý như trong truyện Từ Thức hay Rip van Winkle. Thực ra khái niệm thời gian cục bộ vẫn còn sống sót trong lương năng của người bình dân trên khắp trái đất, trong khi chúng bị tận diệt trên thượng tầng. Chính sự hám lợi của Con người là nơi dễ thuyết phục nhất. Nếu lý thuyết tương đối không dẫn tới công thức khối lượng, với triển vọng giải phóng các nguồn năng lượng từ những thứ có đầy rẫy xung quanh ta là khối lượng, mới làm các nhà giáo điều kinh viện thôi bàn tán vu khoát, những tên thừa sai hiếu chiến mới thôi nghĩ tới việc gây ra những cuộc chiến tranh về tồn tại trong không thời gian. Hòa bình được vãn hồi nhờ viễn cảnh về lợi ích.
Thực tế, độc lập với ý muốn của những người phát minh ra nó, công thức khối lượng cũng đóng góp phần quan trọng vào việc hai quả bom nguyên tử nổ ở Hidroshima và Nagasaki. Openheimer là người làm ra bom nguyên tử cũng là người đã phải ra tòa vì muốn hủy bỏ nó. Tưởng chừng đó là nghịch lý, nhưng đó là cuộc sống. Con người tranh đấu phá bỏ tín điều để xây dựng các tín điều mới. Xây dựng và phá hủy cũng là những con người. Thiết lập giáo điều, thể chế và khát khao tự do cũng là con người. Trong một thế giới nhiều chiều phải biết chấp nhận các nghịch lý. Thực ra chúng cũng là những thực thể thống nhất đang chuyển hóa. Nhìn thấy sự khác biệt chẳng qua là những chấp niệm mê muội mà chúng ta còn cố bám vào một cách lười biếng mà thôi.