Từ Thứ tự Nguyên Trực. Khi còn trẻ chuộng sức mạnh, muốn làm nên sự nghiệp như Hoắc Khứ Bệnh, Vệ Thanh, bèn theo nghề cung kiếm. Thứ thường sử cặp song kiếm, nhiếp hồn đối phương trong nháy mắt, rồi vỗ vai khẳng khái kết bạn. Thường tự cho rằng mình là quân tử kiếm, không cầu thắng làm thiên hạ vô địch, mà chỉ bảo vệ lẽ phải.
Một ngày nọ, bạn thân của Thứ có xích mích rồi bị cường hào ép chết. Người nhà đến khóc lóc, kể khổ với Thứ. Thứ ngửa mặt lên trời than: Tiếc thay cho đôi song kiếm của ta lại phải ra tay với bọn chuột nhắt, nhưng thù bạn không báo sao gọi là quân tử kiếm. Bèn một mình xách song kiếm, đang đêm vượt tường vào nhà cường hào lấy mạng kẻ thù, rồi cao chạy xa bay. Quan phủ cáo thị khắp nơi truy nã Thứ. Có người biết hành tung của Thứ nhưng sợ võ nghệ của Thứ, nên không dám báo quan.
Thứ cùng đường, có người giới thiệu, bèn nhập bọn với lũ lục lâm dư đảng Khăn Vàng, ngày chẹn đường lữ khách kiếm tiền mãi lộ. Một hôm, nhìn đồng bọn tranh giành chia chác đồ cướp được, tủn mủn từng li bạc, thấy ngán ngẩm, bất giác lòng nguội lạnh như băng. Thứ ngẩng đầu trông trời thở dài: Một thân võ nghệ siêu quần, chí lớn trùm đời, mà tới bước phải làm tên cướp đường nhỏ mọn thế này đúng là trời định. Có lẽ đó là số kiếp cho nghề cung kiếm của ta. Bèn chôn đôi kiếm bên sông, thề với trời đất cả đời sẽ không động tới đao kiếm. Đoạn dứt áo ra đi, quyết chí lập nghiệp từ đầu bằng sách vở.
Thứ có hai người bạn cũ là Thạch Thao và Thôi Quân, nghe nói Thứ sử Kinh Châu là Lưu Biểu có hùng chí, văn tài lại đang thu nạp hào kiệt, bèn cùng nhau nhằm phương Nam mà đi. Đến vùng Long Trung, Dĩnh Châu đất đai màu mỡ bèn ở lại làm nghề nông. Bấy giờ, Dĩnh Châu là nơi tụ hội nhân tài, từ Tư Mã Ý, Quách Gia, Trình Dục đều trưởng thành ở đây. Thứ , Thao và Quân theo học Bàng Đức Công, cùng với bọn Tư Mã Huy, Gia Cát Lượng và Bàng Thống. Trong đó Huy lớn tuổi hơn cả được tôn làm anh. Thứ ngày đêm chuyên cần đọc sách, trong vài năm ôm hết kinh luân thiên hạ, chuyên về lược thao binh pháp, cùng Bàng Thống bàn luận rất tương đắc. Thứ còn chuyên cần cày cấy, có được sản nghiệp khá khá, bèn đón mẹ về ở cùng, thờ mẹ rất hiếu.
Một ngày kia, nghe tin Lưu Bị đóng ở Tân Dã là Tả Tướng quân nhà Hán là người có hùng tâm tráng chí, Thứ buông sách ngẩng đầu lên trời mừng rỡ "nay ta gặp được chân chúa cũng là cơ hội ngàn năm có một". Bèn cưỡi lừa, đeo túi vải, đến cửa huyện xin ra mắt và tự tiến cử. Bị gặp Thứ, tâm đầu ý hợp, bèn dùng làm quân sư, kính trọng như khách. Thứ nói: Tôi xin tiến cử với chúa công hai người, một trổ tài lược thao, chinh phạt mở rộng bờ cõi, bình thiên hạ, người kia lo cai trị, ngoại giao. Bị hỏi là ai. Thứ thưa: Người thứ nhất là Bàng Thống, hiệu Phụng Sồ, có mưu lược, dùng binh như thần, có thể coi như Hàn Tín đời nay. Người thứ hai là Gia Cát Lượng, hiệu Phục Long, có tài năng cai trị, có mưu trí, lại giỏi biện bác, ngoại giao, có thể coi như Trương Lương. Bị mừng lắm: Danh của Phụng Sồ-Phục Long ta đã từng nghe Tư Mã Huy nói tới. Thứ nói: Hai người này nếu chúa công muốn mời phải mang lễ trọng để chúng tướng phục thì mới mưu sự được. Bị bèn sắm lễ trọng thân đi mời Lượng và Thống. Chỉ tiếc rằng, Thống bấy giờ đã sang Giang Nam làm việc dưới trướng Lỗ Túc. Bị, Lượng và Thứ, ngày đêm bàn bạc việc dân và binh. Từ đó mới có Long Trung Sách, mưu đồ chia ba thiên hạ thành thế chân vạc. Sách đó Lượng là tay thủ bút, Bị là người có tầm nhìn, Thứ là người thêm màu sắc, đường nét và sách lược quân sự vậy. Có người cho rằng Long Trung Sách là do Lượng viết sẵn khi còn ngủ vùi ở Ngọa Long Cương, thật quá sai lầm.
Chẳng bao lâu, Tào Tháo diệt xong nhà Viên, đem quân trăm vạn nam hạ quyết dẹp yên các sứ quan Kinh Châu và Giang Đông. Lưu Biểu mất đúng lúc Kinh Châu trong cảnh cơm sôi lửa bỏng đó. Con trai thứ của Biểu là Lưu Tông, nghe lời bọn Khoái Việt, đem 9 quận Kinh Tương đầu hàng Tào Tháo. Bị cùng Thứ, Lượng dẫn bọn tướng võ là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân kịch chiến với quân Tào tại Tân Dã thất lợi.
Thứ bèn bày mưu "Nếu ta đánh nhau với Tào bây giờ chẳng khác trứng chọi đá. Nếu vừa đánh vừa lui sớm muộn cũng bị Tào Tháo bắt. Chi bằng, chúa công cho Quan Vũ đem quân bản bộ chạy gấp về Giang Hạ, cướp lấy quân thủy bộ của Lưu Kỳ, đang không theo hiệu lệnh của Tông, lập sẵn phòng tuyến thứ hai. Tháo tuy có trăm vạn quân nhưng đến đó đã như cây cung căng hết sức bật, dễ dầu gì nuốt sống được ta." Bị nói "Ý kiến của quân sư rất cao. Nhưng nay đang cần quân để chống Tào. Để Vũ đi là sinh lực của quân ta chỉ còn một nửa." Thứ nói "Đây cũng ví như để giành giống cho mùa sau trong nghề nông. Nếu cùng ở đây, kéo dài được thêm vài ngày rồi cũng mất cả. Có điều đây là canh bạc mạo hiểm, những người ở lại phải đủ sức và can trường giữ được chân quân Tào ít nhất 10 ngày để Vũ có thời gian chuẩn bị." Bị nói " Trương Phi và Triệu Tử Long theo ta đã lâu, như thủ túc, là các tướng tài thời này vừa trung thành. Lưu Phong, My Phương cũng là dũng tướng, có tài trí, thao lược đều là người thân cận trong nhà. Giản Ung, My Chúc đều có thể cầm quân. Nhưng làm thế nào để giữ cho được 10 ngày".
Thứ đáp "Thủy quân Giang Hạ thiện chiến khét tiếng thiên hạ. Năm xưa, Tôn Kiên oai dũng mà cũng phải mất mạng dưới tay Hoàng Tổ và Tô Phi trong thủy chiến. Nay Tháo không giỏi thủy chiến, chỉ cậy vào quân bộ, ắt sẽ phải tụ trăm vạn quân ở Nam Quận, Công An, Xích Bích lâu dài. Như vậy, cả xứ Giang Nam sẽ sợ mất mật, Ngô Hầu thế nào cũng nghi ngời. Khi đó ta có thể sai Lượng uốn ba tấc lưỡi thuyết Đông Ngô cùng liên minh chống Tào. Ta có 5 vạn quân thủy bộ, cùng với 7 vạn quân Ngô, dựa vào thế hiểm của Trường Giang, lại thêm lòng dân và sĩ tử Kinh Sở, Ngô Việt không thích lệ thuộc Trung Nguyên, đủ đối chọi với quân Tào".
Lượng nói "Tôi có quen Lỗ Tử Kính đại tướng Đông Ngô, có thể nhờ ông ấy tiến dẫn với Ngô hầu. Tôi tin chắc rằng Ngô sẽ không muốn để Tào nuốt được bên ta, vì nếu ta thất bại sẽ đến lượt họ phải đơn độc chống Tào. Vì thế, nếu khéo ta hoàn toàn có thể thuyết phục được Đông Ngô liên minh chống Tào. Vả lại, ta mới thua trận, Tào Tháo ắt cho ta không còn thực lực mà sẽ tập trung đánh Ngô mạnh trước. Khi Ngô và Tào đại chiến, chúng ta sẽ nhân cơ hội thu thập các quận ở Kinh Châu. Tuy vậy, việc cầm chân quân Tào phải nhờ thêm sức trăm họ".
Thứ nói: "Nếu dốc sức đánh và giữ, có giữ được 10 ngày hay không rất khó nói. Tôi xin bày thế trận liên hoàn, không có đụng độ lớn, nhưng quân Tào phải gặp nhiều trận nhỏ, không biết tập trung đại quân ở đâu. Nhưng cần đảm và lược của hai tướng Triệu và Trương."
Bị nghe lời, bèn phái Vũ đem 2000 quân kỵ bản bộ ngày đêm chạy trước tới Giang Hạ. Nhân Lưu Kỳ không phòng bị, Vũ xuất kỳ bất ý đoạt binh phù, có được thêm ngay 2 vạn quân thủy và 1 vạn quân bộ, tích súc lương thực, cắm cờ quạt, chông chà tua tủa, san sát dọc theo mặt sông, lập thành phòng tuyến theo thế ỷ đốc chờ sẵn để đón quân Lưu Bị.
Hôm sau, Lượng cho dán cáo thị khắp nơi "Ai không muốn ở lại với Tào thì theo Lưu Sứ quân về Kinh Châu". Trăm họ, phần đông không biết mô tê phải trái gì, nghe trăm vạn quân Tào đến thì mất mật, gồng gánh theo Bị khá đông. Quân tuyển phong bên Tào là cặp dũng tướng mưu trí Trương Liêu-Từ Hoảng đang tiến đánh như bay vấp ngay phải một đoàn người trẻ con, cụ già, đàn bà, gồng gánh lôi thôi, lếch thếch, eo xèo. Liêu-Hoảng đều đã nhận quân lệnh rất nghiêm của Thừa Tướng không được quấy động nhân dân, rút cục không biết phải ứng phó thế nào. Hai tướng bèn dừng ngựa hạ trại đợi đại quân tới, để xin chỉ thị mới. Tháo nghe tin thám mã hồi báo cũng không biết được sự thể thế nào, chỉ thấy tình huống này chưa từng thấy trong binh pháp, tạm thời không ra được quyết sách. Bèn sai đại quân tiến gấp, sau 5 ngày mới tập kết được toàn quân và đồ truy trọng tới Đương Dương.
Tại Đương Dương, Từ Thứ lại quyết định chia đôi quân, bố trí 2000 quân bộ của Trương Phi lui về lập phòng tuyến thứ hai cách đó nửa ngày đường tại sườn dốc Tràng Bản. Tràng Bản có địa thế hiểm, đường độc đạo, lại có sông che chắn, toàn quân không thể dàn hàng ngang cậy số đôngđi qua, là nơi lý tưởng để cố thủ. Cánh quân của Triệu Vân sẽ có nhiệm vụ tử thủ bảo vệ trận địa Đương Dương để đại quân của Bị rút lui nếu đại chiến có hướng bất lợi.
Theo kế hoạch của Thứ, tại Đương Dương quân nhà Lưu chỉ cần duy trì được 3 ngày. Ngày đầu tiên, Bị cho treo miễn chiến bài, với dòng chữ "quân đi xa mỏi mệt, không chiến" ở dưới ký "Nhân nghĩa quân". Tào Tháo nghe thám tử hồi báo, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ cười lớn: "Huyền Đức muốn dựng cờ nhân nghĩa như Tống Tương Công ngày xưa ư. Cung kính không gì bằng theo ý Huyền Đức." Bèn ra lệnh trong quân cho cắm trại nghỉ ngơi hai ngày để lấy sức. Trình Dục nói: "Thưa chúa công, tuy quân ta đi đường xa mỏi mệt, nhưng chưa đến nỗi kiệt sức. Cũng ví như gân đang săn, khí đang hăng, cố gắng đánh ngay vẫn có thể bắt Lưu Bị. Tôi e rằng cho nghỉ 2 ngày lòng quân sẽ trễ nải." Tháo cười "Ta đánh trận cả đời lẽ nào không biết điều ngươi nói. Phải cho nghỉ ngơi 5 ngày, lòng quân mới trễ nải. Quân ta đã đi bộ hàng trăm dặm, nghỉ 2 ngày dưỡng sức rất có lợi, sức mạnh tăng lên hàng chục lần. Có điều ta chưa hiểu tại sao Huyền Đức lại tốt bụng như thế? Hay vì hắn chưa hiểu phép dĩ dật đãi lao trong binh pháp?"
Hai hôm sau, Tào -Lưu đại chiến tại Đương Dương. Dân chúng bất đắc dĩ phải chứng kiến cảnh đâm chém máu chảy thành sông, khóc như ri, kêu gọi nhau dậy đất, tạo nên một chiến trường rối loạn chưa từng có, dân binh trộn lẫn lộn nhào, chiến xa lẫn với trâu bò gà qué. Thật khó biết phải đánh vào đâu và đánh kiểu gì, xung xa hay trường trận, thật không có bài vở nào có. Quân Lưu lẩn trốn trong các đám dân, bất đồ xông ra tập kích rồi lại biến mất. Quân Tào đang chiếm ưu thế áp đảo nên cũng không vội vã, tránh thương vong vô ích cho dân và cho quân mình.
Khi trời sập tối, toàn bộ đại quân của Lưu Bị với các chiến tướng Lưu Phong, My Chúc, My Phương, Giản Ung đã rút khỏi chiến trường di chuyển về phía sau phòng tuyến dựng sẵn ở Tràng Bản. Trên chiến trường chỉ còn lại quân bản bộ của Triệu Vân gồm 500 người và các nhóm nạn dân. Vân cho đốt hàng ngàn đống lửa. Tháo quan sát từ xa tưởng đại quân Lưu Bị hạ trại bèn cho khua chiêng thu quân và gửi khoái mã đem thư miễn chiến sang quân Lưu hẹn giờ Mão hôm sau đối trận quyết định thắng thua.
Trình Dục vào trình với Tháo "Tôi đã bắt được mẹ Từ Thứ trong đám nạn dân. Xin đem vào yết kiến Thừa Tướng." Tháo cho mời vào, đối đáp rất lễ phép và trọng hậu. Tháo nói "Ta là Thừa tướng Đại Hán, muốn thống nhất thiên hạ để xã tắc khỏi phân tranh. Ta chỉ muốn dẹp yên những kẻ phân tranh chống đối để quốc gia được yên bình. Mong lão mẫu nhìn vào đại cuộc hiểu cho. Lệnh lang là nhân tài thời nay, trót theo phản loạn, ta sẽ khoan hồng và trọng dụng." Từ Mẫu nói "Trước kia tôi chưa được gặp ngài, chỉ nghe thiên hạ đồn đại nửa tin nửa ngờ. Nay mới biết ngài quang minh chính đại như vậy. Xin tình nguyện viết thư khuyên con về hàng nhà Hán." Tháo rất mừng lại khoản đãi Từ Mẫu càng trọng hậu hơn.
Sáng hôm sau, giờ Mùi, quân Tháo tiến lên chỉ gặp quân bản bộ của Triệu Vân. Vân ra sức đánh. Đến giờ Ngọ chỉ còn lại vài chục tên tướng tâm phúc, Vân theo hẹn với Thứ, bèn cho tướng sĩ, mở đường máu thoát ra khỏi chiến trường. Trên đường rút chạy, Vân bắt gặp một chiếc xe. Trong đó chỉ có một đứa trẻ đang nằm khóc, nhìn ra chính là Lưu Thiện, con trai của Bị bị thất lạc. Người nhũ mẫu đã bị giết nằm chết lạnh bên cạnh. Vân bèn buộc Thiện vào người, cùng vài chục quân cưỡi ngựa chạy về Tràng Bản.
Chiều hôm đó, đại quân Tào hơn 10 mũi truy đuổi tới dốc Tràng Bản, gặp quân Trương Phi đang trấn giữ ở đó. Quân Tào, cờ xí rợp trời, trống chiêng inh ỏi, quân đi đầy đồng, thế dời non lật biển. Trương Phi trắng trẻo, tuấn tú, cao lớn, thong dong cưỡi ngựa trông vô cùng nhàn nhã, dẫn quân lập trận ngăn lại. Tháo từ xa nhìn Phi, bất giác thấy kính phục, nhớ lại hồi luận võ nghệ ở Hứa Đô, Quan Vũ có nói Trương Phi võ nghệ sức mạnh còn cao siêu hơn Vũ vài phần. Bèn cho quân hạ trại, hẹn sáng mai quyết một trận tử chiến.
Sáng hôm sau, Tháo cho cánh quân tiên phong của Tào Nhân, Nhạc Tiến xuất trận. Trương Phi dựa vào thế hiểu của sườn dốc Tràng Bản cầm cự được từ sáng đến tối, Qua ngày thứ hai, Tháo cho toàn quân xuất chiến, đại tấn công, Bị cũng đem quân chủ lực tới nghênh chiến cùng với Phi. Tới chiều, quân của Bị đại bại, từng tốp một trốn chạy khỏi chiến trường. Tháo cho thu quân ăn mừng chiến thắng, hẹn ngày mai sẽ tận diệt tàn quân của Bị. Điều Tháo không ngờ là trong đêm đó, Bị và Thứ cũng đang ăn mừng chiến thắng của chiến dịch Tân Dã-Phàn Thành-Đương Dương-Tràng Bản. Có lẽ từ đây, mà Á Đông ta có tục lệ hai phe tham chiến đều mừng chiến thắng.
Đến nửa đêm, các quân kỵ bộ của Phi cũng nhổ trại bỏ chạy nốt về Giang Hạ để tập hợp với quân của Bị và Vũ. Kiểm điểm lại các quân tản mát lần lượt chạy về, số quân thủy bộ bên Lưu lên tới gần 6 vạn. Thứ sai người phao tin đồn lên chuyện Lưu Tông đầu hàng Tào, được phong hầu nhưng bị Tháo cho người giết trên đường về Hứa Đô. Tin đó truyền sang Đông Ngô làm Tôn Quyền hoảng sợ, không dám chủ hòa. Trước đó, Thứ đã viết thư cho Bàng Thống nhờ thuyết phục Lỗ Túc khuyên Quyền liên minh với Lưu Bị. Túc nhận mật lệnh của Quyền tới gần Tràng Bản, thì biết là Bị đã chạy về Giang Hạ, bèn tới Giang Hạ ra mắt Bị, nói về việc Quyền đồng ý liên minh chống Tào.
Tại Giang Hạ, Bị cho mở tiệc ăn mừng và khoản đãi thượng khách Đông Ngô là Lỗ Túc. Khi bình công, công đầu thuộc về Từ Thứ. Rượu đang vui, Từ Thứ bỗng ôm mặt khóc. Bị kinh ngạc hỏi duyên cớ. Thứ nói "Chẳng may lão mẫu đã bị Tào bắt được. Người đã gửi thư khuyên tôi hàng Hán. Vì vậy tiệc hôm nay là lần cuối của tôi với chúa công."
Bị khẳng khái nghe lời "Ta rất tiếc, nhưng mẫu tử tình thâm, Nguyên Trực hãy về lo cho lão mẫu." Thứ nói "Chúa công đã có Khổng Minh giúp tôi cũng yên tâm phần nào. Việc quân, sau này trong, tôi đã lập kế để tiến cử Bàng Sĩ Nguyên, tài còn gấp 10 tôi. Việc lớn lo gì không thành"
Lượng nói "Các nước đánh nhau, không bức bách mẹ cha của nhau. Ngày xưa Hạng Vũ còn không giết Thái Công. Chắc Tào Tháo không hại mẹ tiên sinh đâu. Tôi cho rằng Trung nguyên kẻ sĩ nhiều, tiên sinh về đó cũng chỉ mai một tên tuổi. Theo Lưu Sứ Quân, chúng ta sẽ là Trương Lương, Hàn Tín của nhà Hán"
Tuy vậy, vì mẹ, Thứ vẫn quyết ý ra đi. Bị lưu luyến nhưng không dám ép.
Trước khi sang bên quân Tào, Thứ ghé qua nhà Bàng Thống khẩn khoản nhờ Thống giúp Bị. Thống giận nói "người coi ta là món đồ thay thế để cúng tế như hình nhân thế mạng chăng". Bèn không nhận lời. Tuy vậy, sau này, Thứ đã có kế phản gián, khiến Lỗ Túc nhiều lần tiến cử nhưng Tôn Quyền và Chu Du không dùng Thống. Rốt cuộc Thống phải theo Bị, rồi giúp Bị lấy Tây Xuyên. Sau này, Lượng làm đến Thừa tướng nhà Thục, nghe tin bọn Từ Thứ, Thạch Thao, Thôi Quân làm quan bên Tào chức chỉ tới trung lang tướng, bèn ngậm ngùi than thở tiếc cho tài của các bạn.
Lại nói Tào Tháo, sau khi thắng lớn ở Đương Dương-Tràng Bản bèn cho quân thu thập Kinh Châu, Nam Quận, Tràng Sa vỗ yên dư đảng của Lưu Biểu. Trong vòng một tháng, đè nén kẻ phản kháng, lấy lòng kẻ thức thời, cắt đặt cai trị chu đáo. Lại thu thập được bọn nhân tài Khoái Việt, Sái Mạo. Phong cho Lưu Tông một chức quan cao nhàn tản ở kinh đô. Hai tháng sau Tháo mới mang quân sang Đông. Khi đó liên minh Lưu-Tôn đã hình thành xong.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét