Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Thói quen cắt lỗ ra khỏi cục pho mát

Sĩ phu Bắc Hà rất ưa thích so sánh.  Cứ hễ so sánh là cãi nhau. Tất nhiên lý do cuối cùng là "bánh tao đâu", nhưng cũng có chút lý do cãi nhau là ở bệnh thích so sánh. So sánh A với B, anh với tôi, nó với chúng nó. Thích lắm, thú vị lắm, giống như chơi trò tetrix, ăn điểm số, hay nhập cái bang được lên một túi. Không phải làm gì cả, hơn nữa là một trật tự bất biến, cứ thế ngồi hưởng. Cho dù cái bổng lộc đó thảm hại thế nào, cũng có được phép thắng lợi tinh thần.

Mọi phép so sánh đều gắn với một hệ giá trị có trật tự hơn kém, thường là định lượng được bằng một con số. Trên một trục số, thì phải trái, hơn kém, trước sau rạch ròi. Chỉ có điều, những thứ trong thực tế, đa phần lại không chỉ có một giá trị, cho dù có thể định lượng. Hai điểm trên mặt phẳng đã không thể biết lớn nhỏ, phải trái, trước sau một cách khách quan. Có chăng phải lấy một cá nhân làm rốn của vũ trụ mới phán được. Nhưng trong thời đại biến động, gốc tọa độ cũng chuyển động như chong chóng. Anh mới ở đầu hàng đấy, thoắt cái đã thành ra cuối hàng. Hai số phức rõ ràng có định lượng, nhưng không thể nói số nào lớn hơn số nào.  Hai đại lượng ảo và thực lại chuyển hóa qua nhau khi quay trục tọa độ.

Đơn giản hóa là cái bệnh của sĩ phu Bắc Hà, cái gì chưa hiểu thì cứ tóm một câu "nôm na là ....". Đỡ tốn công đọc hiểu, đau đầu phức tạp. Tư duy diễn nôm có một sức hút kỳ lạ. Thứ nhất nó cũng nghe na ná như minh triết, chỉ khác cái không dựa trên khổ công luyện tư duy đến mức tinh thục. Thứ hai nó rất cuốn hút đại chúng, do liên hệ gần như một một đến những gì đại chúng đang thiếu thốn, đang thích thú như tâm linh, số mệnh, dân chủ, chứng khoán, kiếm tiền, lừa cấp trên, cấp dưới dễ dàng. Đơn giản hóa kiểu diễn nôm bao giờ cũng giải quyết dễ dàng bài toán so sánh. Nếu chỉ có một đại giáo chủ, thì mọi việc hẳn đã dễ. Tuy nhiên, trong thời đại tập sự dân chủ có đến hàng tỷ loại giáo chủ diễn nôm khác nhau, thế là tranh luận không thôi, hoàn toàn không có một mục đích thực tiễn nào cả, thậm chí về nhận thức cũng chẳng thu hoạch gì. Từ Thức gặp tiên về vẫn thấy hai ông sĩ phu Bắc Hà cãi nhau về cùng một chủ đề, có khác chăng luận điệu của ông B bây giờ là của ông A trước đây và ngược lại.

Diễn nôm trong một số trường hợp khá thành công, nhưng đó là ngẫu nhiên. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp là cố gắng cắt lỗ ra khỏi cục pho mát. Cái lỗ trong pho mát tồn tại được là nhờ có pho mát bao quanh. Sĩ phu Mít thản nhiên nói về cái lỗ như một thực thể độc lập và tranh luận rằng lỗ phải có trước, phải ưu tiên hơn pho mát.

Chính vì thế có những cuộc tranh cãi kỳ cục: Nghệ thuật và Nhân sinh, Biết và Làm, Tinh thần và Vật chất. Hoàn toàn không khác gì tranh luận từ thời Trung cổ ở phương Tây về Trứng và Gà. Ngày nay có ai nói chuyện kiểu như thế ở phương Tây, hẳn bị coi là dở hơi. Ở ta nói chuyện giống hệt như thế vẫn được tôn vinh. Kể cũng lạ.

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Ngã học Dich [6] Hệ từ truyện Quyển Thượng Chương 1. Tổng luận

Sau khi đọc toàn bộ chương luận rõ nghĩa, tạm điều chỉnh và dịch sang tiếng Việt. Trong quá trình đọc, còn tiếp tục điều chỉnh nếu ngộ được thêm ý nghĩa. Trước mắt, giải nghĩa căn cứ vào văn bản, án tại hồ sơ, truy tìm nghĩa gốc, nhìn logic kết nối các khái niệm, không suy luận chủ quan, tán hoa hòe hoa sói theo cảm tính.

Dịch văn:
                           Chương 1
    Trời sang đất hèn, mà Càn Khôn định rõ.
    Cao thấp để sắp đặt, mà sang hèn có nơi chốn.
    Động tĩnh có phép tắc, mà cương nhu tách biệt.
    Tương đồng để nhóm họp, hoàn cảnh riêng để chia lìa, mà sinh thành lành dữ.
    Trên trời xem tượng, dưới đất xem hình, mà nhìn ra được sự biến hóa.
    Chính vì vậy, cương nhu cọ xát, tám quẻ đan xen.
    Gióng lên để ra sấm sét, tưới đẫm để thành gió mưa,
nhật nguyệt xoay vần, lúc lạnh lúc nóng.
   Theo cách của Càn là tính nam, theo cách của Khôn là tính nữ.
    Càn nắm được chỗ khởi đầu, để Khôn tạo thành sự vật.
    Càn để hiểu đời dung dị, Khôn để giản tiện công việc
    Dung dị sẽ dễ hiểu, giản tiện sẽ dễ theo. Dễ hiểu sẽ thân thiện, dễ theo sẽ có công. Thân thiện sẽ bền lâu, có công sẽ to lớn. Bền lâu là công đức của người hiền, to lớn là sự nghiệp của người hiền.
    Dung Dị -Giản tiện thì nắm được cái lý của thiên hạ, được cái lý của thiên hạ, thì phải chăng đã chiếm được vị trí chính giữa của thiên hạ.


Tổng luận
     Để hiểu được Dịch chỉ cần nắm được cách nhìn mọi sự vật, quá trình theo hai mặt đối lập mà Dịch gọi là Càn và Khôn,
     Toàn thể vũ trụ cũng chỉ gồm hai mặt Càn và Khôn, nên càn khôn còn dùng để chỉ toàn vũ trụ. Mặt trời-Mặt trăng, Âm-Dương, Nóng-Lạnh, Cao-Thấp, Động-Tĩnh, Sang-Hèn, Nam-Nữ, Sấm-Sét, Gió-Mưa, Khởi đầu-Kết Thúc,... đâu đâu cũng có hai mặt Càn và Khôn, tạo thành động lực biến chuyển tuần hoàn từ Càn qua Khôn, để rồi lại bắt đầu hình thành chu kỳ mới trở lại Càn.
      Thâu tóm cả vũ trụ vào một phạm trù Càn-Khôn, Dịch đơn giản như quan điểm thực hành hiện đại, mọi thông tin về sự vật đều mã hóa dưới dạng bit 0 và 1, hay quan điểm về tính đối ngẫu từ quan điểm sóng- hạt trong lý thuyết lượng tử.
     Dịch không phải chỉ là vũ trụ quan mơ hồ và vu khoát. Dịch nhằm đến chỗ thực hành, nắm được vị trí quyền lực phân xử đúng sai, ở vị trí trung tâm của thiên hạ. 
     Do đó Dịch chủ trương Dung Dị trong nhận thức và Giản Tiện trong thực hành để lôi kéo được đại chúng và dẫn dắt cho họ.
     Chính vì vậy, Dịch sẽ có những hạn chế trong việc đi vào thực tiễn. Đã đành mọi sự vật đều có thể nhận thức nhờ hai mặt đối lập, nhưng sự vận động của chúng là sự chuyển hóa liên tục giữa hai mặt đối lập. Để dung dị và giản tiện, Dịch mô tả gần đúng chuyển hóa này bằng các vòng tròn nhỏ hơn. Nhìn nhận vòng tròn chỉ bằng hai mặt âm dương, sẽ không thấy được động lực. Nhận thức được Ngày và Đêm, nhưng không có khát vọng tìm ra động lực liên tục, sẽ không thấy được Trái Đất tròn và chuyển động.
     Về mặt xã hội, Dịch đơn giản chia tôn ti trật tự, sang hèn, theo nhiều bậc mỗi bậc lại có trên có dưới. Đó là bức tranh trật tự tĩnh. Cái vận động của Dịch là vận động của một cá thể trong một trật tự tĩnh. Do động lực là phổ quát, tính Càn và tính Khôn chỉ có ý nghĩa tương đối mà thay đổi ngay từ khi nó hình thành. Cá thể vận động trong một trật tự xã hội cũng cần nhận thức được điều đó. Dịch không có khái niệm động lực, ắt cũng không có khái niệm thời gian. Không có thời gian nên trật tự xã hội của Dịch là phi nhân, thích hợp với một xã hội sinh ra để phục vụ cho một trật tự bất di bất dịch.

Ngã học dịch [5] Hệ từ truyện. Quyển Thượng. Chương 1. Tiết 8

Nguyên văn
 簡,而      矣;天    得,而      矣。

Phiên âm Hán Việt
8. Dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hĩ, thiên hạ chi lý đắc, nhi thành vị hồ kì trung hĩ.


Dịch và giải thích của Nguyễn Hiến Lê: 
   Có đức “dị” (của Càn), có đức “giản” (của Khôn) thế là nắm được đạo lý trong thiên hạ rồi; nắm được đạo lý trong thiên hạ, thế là có được cái địa vị ở giữa trời và đất (cùng với trời đất thành ba ngôi: tam tài: trời, người, đất, tham dự được với trời đất.
Chú thích: thành vị hồ kỳ trung, R. Wilhelm dịch là “sự toàn thiện ở trong đó” tức đạt được sự toàn thiện. J.Legge, trong The I ching. Theo Chu Hi, dịch như chúng tôi.

Đọc văn
   Câu này chỉ khó nhất là "hồ kì trung". Cách dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê đoạn này nói là theo Chu Hi, khác với các dịch giả khác. Tuy nhiên cụ cũng hơi tán rộng một chút thành chữ nhân trong tam tài. Ở đây chúng tôi dịch theo án tại hồ sơ rồi luận nghĩa sau. "kỳ trung" là chính giữa của nó. 

Dịch văn:
    Dung Dị -Giản tiện thì nắm được cái lý của thiên hạ, được cái lý của thiên hạ, thì phải chăng đã chiếm được vị trí chính giữa của thiên hạ.

Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
    Đây là câu luận nói về ý nghĩa cuối cùng của Dịch: Làm mọi sự giản đơn, để nắm được cái lý của thiên hạ và chiếm được vị trí trung tâm (đóng vai trò phân xử đánh giá đúng sai, lành dữ). Vậy cái lý của thiên hạ là gì. Theo nghĩa ngày nay, chân lý vận động, điều đúng hôm nay, chưa chắc đúng ngày mai, điều đúng hôm qua, hôm nay không còn đúng. Không có chân lý tuyệt đối đúng trong vận động xã hội, tách rời đám đông. Nhưng đám đông khốn cùng, không có tài nguyên, quyền lực chắc chắn là không được có chân lý. Chân lý được xác định bởi sự cân bằng giữa thân thiện đồng thuận - tiên phong, áp đặt.
    Ví như các cuộc cách mạng hay các cuộc tranh cử, bao giờ cũng quá khích khi vận động, khi thành công bao giờ cũng điều chỉnh quan điểm vào chiếm trung, làm nhiều người có tâm lý bị phản bội đó là vì không hiểu lẽ dịch. Vì khi các anh ủng hộ tôi giành vị trí tối cao, quan điểm của tôi chỉ là quan điểm của một phái. Khi tôi được vị trí tối cao, quan điểm của tôi phải là của toàn thể xã hội. Tôi không còn là công cụ của các anh, tôi là chúa tể của xã hội, phải move to the center.
   

Ngã học Dịch [4] Hệ từ truyện. Quyển Thượng. Chương 1. Tiết 7

Nguyên văn
   知,簡   從。易    親,易    功。有    久,有   大。可      德,可      業。 

Phiên âm Hán
Dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng. Dị tri tắc hữu thân, dị tòng tắc hữu công. Hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại. Khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp.


Dịch và giải thích của Nguyễn Hiến Lê: (Người ta nếu bắt chước Càn, xử thế một cách) bình dị thì (lòng minh) người khác dễ biết (1); (nếu bắt chước Khôn mà xử sự một cách) đơn giản thì người khác dễ theo mình. Người khác dễ biết mình thì có nhiều người thân với mình; người khác dễ theo mình thì mình lập được công lao. Có nhiều người thân thì mình được lâu dài (2), lập được nhiều công thì sự nghiệp mình lớn. Mình được lâu dài thì là có đức của hiền nhân, có sự nghiệp lớn thì là có sự nghiệp của hiền nhân.
Chú thích: Mấy tiết trên nói về đạo, đức của Càn, Khôn; tiết này nói về người hiền.
(1) Dị tắc dị tri: chữ tri ở đây không có nghĩa là làm chủ như trong hai tiết trên, mà có nghĩa là biết. Chữ dị thứ nhất nghĩa là giản, chữ dị thứ nhì (dị tri) là dễ, trái với nan là khó.
(2) Cửu: lâu dài, có nghĩa là giữ chức vụ lâu, vì nhiều người đồng tâm với mình. 


Dịch:
    Dung dị sẽ dễ hiểu, giản tiện sẽ dễ theo. Dễ hiểu sẽ thân thiện, dễ theo sẽ có công. Thân thiện sẽ bền lâu, có công sẽ to lớn. Bền lâu là công đức của người hiền, to lớn là sự nghiệp của người hiền. 

Đọc văn
     Đoạn này là phá đề của chương 1. Sau khi tóm lược chủ đề và giải nghĩa rộng, phá đề là câu đưa ra các ý tứ mới, thay đổi nhận thức.   
     Nghĩa văn và logic của câu này đơn giản, đọc đoạn dịch là hiểu. Văn viết theo lối tạo thành hai chuỗi domino song hành. Điểm kết thúc là hai cặp phạm trù song hành của người hiền: là công đức và sự nghiệp. 

Lời bình của Lệnh Lỗi Dương 
     Toàn bộ ý nghĩa thực hành của Dịch là nắm chắc được việc sử dụng cặp phạm trù Càn-Khôn.
      Cuối cùng để được ích lợi gì? Cụ Khổng viết Hệ từ, hẳn nghĩ nhiều tới vấn đề thực tiễn. Tóm lại phải có công đức và sự nghiệp. Sự nghiệp mà không có công đức, đó là Hitler, Hussein, Ceaucescu, Tần Cối... phí một đời hò hét, trổ tài chỉ để người cười chê. Công đức mà không có sự nghiệp chỉ tỏa sáng được một thời, không để lại dấu ấn cho mai hậu. Rõ ràng phải cân bằng hai vế, không chỉ cốt được việc, nhưng không bày trò vu khoát.
     Muốn có công đức-sự nghiệp lại phải cân bằng giữa bền lâu-to lớn. Gia Cát Lượng, Khương Duy muốn làm lớn, nhưng nhiều lúc quên gốc bền lâu, mòn mỏi đem quân ra Kỳ Sơn làm quốc lực suy yếu.  Bài Thù quốc luận của Tiêu Chu không phải không có lý đã báo trước sự diệt vong, vì quên bồi bổ gốc lâu bền. Tôn Quyền không có chí lớn, thụ cửu tích, bo bo giữ hiểm cậy sông sâu, thành cao, rồi cũng diệt vong. Muốn bền lâu-to lớn phải thân thiện-có công. Thân thiện là giữ hòa khí, được người yêu mến, có công có thể là tiền tài hoặc công lao thành tích. Giành hết thành tích của thiên hạ thì bị ghét, ăn vét tận máng, tiền thu tận xu cuối thì không thể giữ thân thiện. Ngu như Bá Kiến vẫn biết vứt trả lại năm hào, đẩy người xuống nước rồi lại vớt lên. Nhưng những người hào hiệp, quảng đại vô nguyên tắc, thường khó nên công. Làm sao giữ được cân bằng mới là khó. Lẽ Dịch chỉ ra muốn có thân thiện-có công thì phải dễ hiểu-dễ theo. Lẽ đời, muốn người ta kiêng sợ thần thánh hóa mình thì phải huyền bí khó hiểu. Con rồng lộ vẩy là rồng mất thiêng. Tôn giáo hấp dẫn là nhờ bùa chú. Nhưng đó chỉ là dị đoan chưa phải là người hiền. Cái khó là dễ hiểu phải cân bằng với dễ theo vậy. Tưởng khó nhưng lẽ Dịch rất đơn giản chỉ cần cân bằng dung dị-giản tiện. Nói thì dung dị, làm thì giản tiện không cần cân nhắc nhiều. Dịch là đơn giản, nhất quán, không có gì kỳ bí như nhiều người giải thích.
     Cụ Nguyễn Hiến Lê thêm thắt hơi việc bắt chước Càn Khôn hơi dư thừa và hạn chế suy nghĩ của người đọc theo cách nghĩ của mình. 
    Ở đây Lệnh tôi dùng một chữ cổ là "dung dị" vừa dễ dàng vừa bao dung được nhiều người thấy thích hợp nhất. Nếu ai biết từ hiện đại nào bao quát được ý này xin chỉ giáo 

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Đạo lý Tetrix.

Vi sao hệ thống nhà nước mê hoặc công chức? Công chức công việc chính là cạo giấy. Vô cùng nhàm chán. Lại rất ỷ eo nhiều chuyện vô nghĩa, hạn chế suy nghĩ độc lập, làm cùn nhụt ý chí. Đãi ngộ lại vô cùng bạc bẽo. Người ta nghĩ rằng động lực công chức là bổng lậu. Thực ra, hàng trăm vị trí công chức không có lấy một vị trí có thể kiếm được bổng lậu. Tất nhiên không thiếu các vị trí kiếm được tiền giời ơi, nhưng động lực chính cho công chức trẻ vẫn không phải là vật chất. Một công chức 30-40 có danh xưng Phó Vụ Trưởng đến các cuộc họp đã được giới thiệu rất oai. Nhưng tại Vụ, ngài PVT chỉ huy bao nhiêu người? Nhiều Vụ có 5-6 người đã có tới 4-5 người ở cấp Phó Vụ Trưởng, Vụ trưởng, thậm chí hàm Vụ trưởng. Chuyên viên còn quý hiếm hơn quan. PVT vẫn cạo giấy như thường, trừ những vị trí đặc biệt, đó chỉ là danh xưng bên ngoài. Như vậy quyền lực, điều khiển người khác cũng không phải là động lực. Động lực chính vẫn là hệ thống cấp bậc, chức danh và sự cay cú hoặc thỏa mãn đi đôi với các nấc thang. Tâm lý này giống hệt trò chơi Tetrix. Trò chơi này khá đơn giản, không có gì lý thú, nhưng hấp dẫn bởi hệ thống tính điểm lên bậc, ngoài ra không có gì khác. Cũng giống như hệ thống cấp bậc của Cái bang: Bắt đầu là đệ tử 1 túi, lên đến chín túi rồi mới đến trưởng lão, lại trở lại một túi đến chín túi, rồi mới đến đại trưởng lão, rồi mới có chức như truyền công, chấp pháp, rồi mới tới phân đà chủ, phó bang chủ mới đến bang chủ. Lên mỗi nấc là trăm sự nhiêu khê, lễ nghi lằng nhằng. Nhưng sự hấp dẫn ở đó, tính ràng buộc cũng ở đó. Đệ tử 9 túi là một cấp bậc vô cùng nhỏ nhoi, vô nghĩa, nhưng mất hàng chục năm công cán, bao nhiêu lần lên chức trước ngàn cặp mắt ghen tỵ của đồng cấp. Nếu bỏ đi thì tiếc vô cùng. Cấp bậc quân đội cũng hấp dẫn như vậy. Ngày nay, tại Trung Quốc quân nhân không thể lên chức Nguyên Soái, thậm chí Đại tướng cũng không có. Nhưng đã có thêm 4 bậc Quân Sĩ trưởng (tương đương với 7 cấp bậc Hạ Sĩ quan), 3 cấp Úy, 4 cấp Hiệu và 3 cấp Tướng. Đeo lon cấp Úy hay Hiệu đã là vinh dự và khó như lên trời, vô cùng hấp dẫn. 
Từ bao giờ chẳng biết, tư duy tetrix cũng len vào giới học thuật, chuyên môn. Cũng tốt. Học thuật chuyên môn là làm việc thật. Làm việc mà không tưởng thưởng thì tốt quá. Nên mới đẻ ra các bậc viên chức, phóng viên chính, nhà giáo ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, PGS và GS các loại. Nhà giáo mà không có có ưu tú, thì chẳng khác nào có thêm cái nhãn không ưu tú.Phóng viên mà không chính khác nào là có mác phóng viên phụ. Chuyên gia không có chữ cao cấp khác nào loại hai, thấp cấp, trong một thị trường toàn đồ hàng dỏm, nhái. Khó chịu lắm. Ai biết sắc sảo tận tâm, hùng hồn uyên bác thế nào, tất cả đều nhòe nhoẹt trong một đám ngu phu ngu phụ vô danh. Thế là bản năng tetrix trồi dậy cuốn hút bao người vào một hành trình thăm thẳm. Có người làm việc chi phí thấp hản là tốt rồi. Nhưng xem ra hệ thống chức danh cũng có những nhược điểm ngày càng lộ rõ. Quan trọng nhất là động lực danh và động lực làm việc đã nhanh chóng đi về hai hướng. Mấu chốt nhất là chế độ tưởng thưởng, ít ỏi nên phải phân biệt, và theo danh thì đỡ eo xèo nhất. Thế là trò tetrix này càng thêm động lực, trở thành Võ lâm truyền kỳ, binh khí cấp bậc tính ra tiền ảo, tiền ảo đổi thành tiền thật. Không ai còn làm gì chỉ sôi sục theo danh lợi tạo thành cơn sốt ảo.
Trò chơi này đến lúc nào đó sẽ có những biến thái mới. Sẽ có đứa trẻ nào hô lên chuyện Hoàng đế ở truồng. Ăn nhau là mặc quần áo hay không, chứ không có quần mà gọi là tơ siêu hạng, nhẹ như không để người đời bắt buộc phải tán thưởng có gì lý thú. Và nhất là danh hiệu hão không thể là động cơ vĩnh cửu vận hành một bộ máy thực sự làm việc

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Ngã học Dịch [2] Hệ từ Truyện Thiên Thượng Chương 1 Tiết 1 (tiếp theo) Hiểu chữ phương và vật

Mấu chốt để hiểu Tiết 1, Chương 1, Hệ từ truyện, Thiên Thượng là ở câu:
 "Phương dĩ tụ loại, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hĩ"  
Nguyễn Hiến Lê dịch giải như sau:
"Việc (1) có xu hướng phải trái nên sắp với nhau thành nhóm; vật có hình riêng nên chia ra từng bầy; do đó mà đặt ra lời cát và hung. 
(1). Chữ phương ở đây có người hiểu là nơi và dịch: các loài tụ lại từng phương. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. R. Wilhelm dịch là biến cố. "
Trước hết ta hãy xem việc "cát hung sinh" trong quan hệ với "tụ loại" và "quần phân". Nói về Dịch là nói về biến chuyển, mục đích là xem cát hung (lành dữ). Cát hung là nói về được mất, thay đổi theo tình hình thay đổi (Chương 3 quyển Hạ có câu "Cát hung giả, ngôn hồ kì thất đắc dã", Chương 12 quyển Hạ lại có câu Biến động dĩ lợi ngôn, cát hung dĩ tình thiên)
Nguyên lý của Dịch là phù hợp thì lành, sinh cát, xung khắc thì dữ, sinh hung. Nương theo cát hung mà hành động, cát thì thuận nước đẩy thuyền, hung thì luyện chí đợi thời.

Tiết mở đầu của Hệ từ truyện là phải quán xuyến được nguyên lý thực hành đó của Dịch, chứ không phải nói chuyện vu khoát. Do đó "tụ loại" chỉ nói về sự phù hợp, giống nhau, nhóm họp, "quần phân" nói về sự xung khắc, khác biệt, chia lìa.

Vậy thì cái gì sẽ dùng để nhóm họp, chỉ ra sự phù hợp, cái gì dùng để chỉ ra xung khắc, chia lìa? Nhóm họp dựa trên tương đồng, giống nhau, cùng loại. Xung khắc, chia lìa dựa trên sự khác biệt. Chúng ta sẽ xem nghĩa nào của chữ "phương" và chữ "vật" có liên quan đến ý nghĩa đó của Dịch. Cũng cần xác định văn của Dịch là văn muộn nhất vào thời tiên Tần, do đó cần các xét theo nghĩa cổ, không hạn chế ở các nghĩa hiện nay.

Chúng tôi tham khảo phần giải nghĩa tường tận  http://www.zdic.net/z/1b/xs/65B9.htm, sau khi nhóm họp các nghĩa có dị biệt nhỏ thấy có các nghĩa như sau:
 (1) Thuyền và thuyền ghép song song gọi là phương chu lễ tiết cho các quan đại phu, hoặc tạo thành chiến thuyền lớn trong quân sự.
(2) Tương đương, cùng loại, như nhau, so sánh
    Sách Chu Lễ có câu Tử nhân vi hầu, quảng dữ sùng phương. Khắc ấn phong hầu đều tôn trọng NHƯ NHAU
     Sách Chiến quốc có câu Kim giả, tề, hàn tương phương. Người thời nay, Tề Hàn đều NHƯ NHAU.
       Trong Hán Thư, truyện Vệ Thanh Hoắc Khứ Bệnh có câu Tán phiếu kỵ diệc phương thử ý Tán dương phiêu kỵ cũng giống như ý đó.
(3) So sánh để thấy sự khác biệt
       Trong sách Quốc Ngữ có câu  "Dân thần tạp nhữu, bất khả phương vật". Dân thần lẫn lộn, không thể phân biệt. Tuy nhiên, lưu ý sự khác biệt là do chữ vật trong từ "phương vật"
(4) Chiếm hữu, ở
     Kinh Thi trong  bài Triệu nam · Thước sào có câu  Duy thước hữu sào, duy cưu phương chi.  Chim khách có tổ, bị tu hu vào ở chiếm lấy
(5) Bắt chước, theo hình mẫu
     Tuân Tử có câu "Phương kỳ nhân chi tập quân tử chi thuyết, tắc tôn dĩ biến hĩ, chu ô thế hĩ" Bắt chước người tài tập nói chuyện theo lối quân tử, ắt được kính trọng mà thay đổi để giúp đời".
  Nghĩa (2), (3) và (5) đều có quan hệ logic đến việc phù hợp, "tụ loại". Nghĩa (1) không có liên quan. Nghĩa (4) có thể có liên quan nhưng theo một nghĩa khác "tụ loại theo nơi chốn, phép tắc, sự chính trực". Chúng tôi tạm để vào một khả năng để khảo dị. 
    Nếu tổng hợp các nghĩa còn lại đều có thể tạm dịch như sau:
   "Tương đồng để nhóm họp, hoàn cảnh riêng để chia lìa, mà sinh ra lành dữ".
   Nếu theo nghĩa này ta có thể chọn nghĩa "vật" như là hoàn cảnh riêng.

   Ở đây chúng tôi muốn bàn thêm một cách suy luận theo nội dung hiện đại để thấy cách hiểu chính và cách hiểu khảo dị có thể thống nhất với nhau để đưa ra một cách hiểu rộng duy nhất.

    Chúng ta có thể thấy "phép tắc" và "tương đồng" bao giờ cũng đi đôi với nhau. Bất cứ phân loại, nhóm họp hay hình thành khái niệm đại diện cho cả nhóm bao giờ cũng phải có một "phép tắc" nhất quán dựa trên "sự tương đồng". Ví dụ, người xưa nhận thức được những con bò thông qua những con bò cụ thể. Nếu không có phân loại, không có được tư duy trừu tượng dựa trên khái niệm, các con bò là những đối tượng cụ thể không có liên quan và cũng bình đẳng như những con vật khác. Việc hình thành nhóm các con bò với đại diện là khái niệm trừu tượng "bò" không chỉ con bò cụ thể nào, phải dựa trên một nguyên tắc bao gồm một tập tính chất tương đồng nào đó (như bốn chân, có sừng, ăn cỏ, cày ruộng,...).  Các khái niệm hình thành nhờ mở rộng hoặc thu hẹp các tập tính chất tương đồng, căn cứ vào đó các nhóm đồng loại cũng được thu hẹp hay mở rộng. Nhờ thế có khái niệm con vật, vật bốn chân, thú có vú, họ trâu bò, bò, .... Người ta có thể nhận thức được một nhóm con, hoặc một cá thể nhờ một sự khác biệt (hoàn cảnh, điều kiện riêng) nào đó.

     Các ví dụ nổi bật về "tụ loại" và "quần phân" là định luật hấp dẫn Newton và việc tìm ra sao Hải vương Tinh (Neptune) . Các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều tuân theo định luật Newton. Đó chính là "tụ loại", có phép tắc, quy luật, ....  Tuy nhiên, các nhà khoa học khi đó thấy rằng quỹ đạo của sao Thiên Vương (Uranus) có vẻ lệch so với tính toán, dựa trên các dữ liệu quan sát được. Đó chính là "quần phân" khác biệt, dị thường, phá vỡ quy luật,.... Để giữ nguyên quy luật, người ta phải giả thiết có sự tồn tại của một hành tinh khác là Hải vương tinh. Áp dụng định luật Newton, người ta có thể tính chính xác được quỹ đạo và vị trí của sao Hải vương để quan sát được nó.Việc GellMann tiên đoán được hạt Omega dựa trên đối xứng SU(3) và Meldeleev tiên đoán được các nguyên tố nhờ bảng tuần hoàn cũng là các ví dụ tương tự về tư tưởng hiện đại của "tụ loại" và "quần phân". Tuy nhiên, ở tiết này việc vận động qua lại giữa "tụ loại" và "quần phân" cũng như việc hình thành khái niệm và quan hệ giữa cá thể và quần thể trong Dịch chưa có một sự vận động chuyển hóa linh hoạt như tư duy khoa học hiện đại.

      Theo quan niệm hiện đại, đây chính là cơ sở của nhận thức: nhìn thấy sự liên hệ qua các tính chất tương đồng để hình thành khái niệm, nhìn thấy sự khác biệt để phân biệt sự vật (kể cả tốt và xấu). Chúng ta hy vọng, ở các phần sau, trong Dịch cũng sẽ có quan điểm linh hoạt, chuyển hóa như vậy. Theo quan niệm phổ biến hiện nay ở Á Đông, tốt là theo chuẩn, phép tắc đi kèm với sự chính trực, do đó không có đột phá. Cái gì phá cách, bất thường là xấu. Do đó thực ra không có cái gì là Lành hay Dữ theo nghĩa tuyệt đối. Lành hay Dữ là theo cách nhìn sự vật. Điều mà một số người cho là tốt, có thể là xấu đối với một số người khác. Hơn nữa, do vận động phải tuần tự, điều xấu cũng chưa chắc đã là xấu nếu coi đó là một đoạn đường ắt phải qua để đến kết quả tốt.
   
   Như vậy, Cát Hung là do góc nhìn và thời điểm. Phân biệt Cát Hung chưa chắc đã là tốt. Điều quan trọng hơn là nhìn nhận ra sự vật và xu hướng vận động của nói. Đến đây chưa rõ là tư duy lạc hậu Á Đông là phản Dịch hay trung thành với Dịch và Dịch có hạn chế ở cách nhìn nhận cứng nhắc về Cát Hung.
 
      Theo tư tưởng trên, chúng tôi đề nghị dịch câu trên như sau "Phép tắc tương đồng để nhóm họp, điều kiện riêng để phân biệt, mà sinh thành Cát và Hung". Chúng ta sẽ điều chỉnh cách dịch câu này khi đọc và hiểu nhiều hơn về Kinh Dịch.

Ngã học Dịch [3] Hệ từ truyện Thiên Thượng Chương 1 tiết 2-6

Nguyên văn
2. 是 故, 剛 柔 相 摩, 八 卦 相 盪.
3. 鼓 之 以 雷 霆, 潤 之 以 風 雨, 日 月 運 行, 一 寒 一 暑.

4. 乾 道 成 男, 坤 道 成 女.
5. 乾 知 大 始, 坤 作 成 物.
6. 乾 以 易 知, 坤 以 簡 能.


Phiên âm
2. Thị cố, cương nhu tương ma, bát quái tương đãng.
3. Cổ chi dĩ lôi đình, nhuận chi dĩ phong vũ, nhật nguyệt vận hành, nhất hàn nhất thử.
4. Kiền đạo thành nam, khôn đạo thành nữ.
5. Kiền tri thái thủy, khôn tác thành vật.
6. Kiền dĩ dị tri, khôn dĩ giản năng.

Dịch nghĩa và chú thích của Nguyễn Hiến Lê
2. Thị cố cương nhu tương ma, bát quái tương đăng. 
Dịch: cho nên cứng và mềm cọ nhau, giao nhau mà thành bát quái, bát quái luân chuyển nhau (chồng lẫn lên nhau mà thành sáu mươi bốn quẻ). 
3. Cổ chi dĩ lôi đình, nhuận chi dĩ phong vũ, nhật nguyệt vận hành, nhất hàn nhất thử. 
Dịch : Cổ động cho muôn vật bằng sấm sét (ám chỉ quẻ Chấn); thấm nhuần cho muôn vật bằng gió mưa (ám chỉ quẻ Tốn), mặt trời mặt trăng xoay vần, cứ lạnh rồi tới nóng (thay đổi nhau hoài). 
Chú thích: đây nói về sự biến hoá thành ra các tượng ở trên trời. 
4. Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ. 
Dịch: Có đạo Càn (tức khí dương) nên thành giống đực, có đạo Khôn (tức khí âm) nên thành giống cái. 
Chú thích: Chữ đạo ở đây không có nghĩa là đạo đức, cũng không hẳn có nghĩa như trong “Đạo đức kinh”. Có thể tạm coi là luật thiên nhiên. Nam, nữ thường dịch là trai, gái, như vậy là chỉ xét chung về loài người thôi, nghĩa hẹp đi. 
5. Càn tri thái (có người đọc là đại) thủy, Khôn tác thành vật. 
Dịch: đạo Càn làm chủ (tác động) lúc mới đầu (lúc chưa thành hình); rồi sau đạo Khôn làm cho (vạn vật) ngưng kết mà thành hình. 
Chú thích: Chữ tri ở đây không có nghĩa là biết; mà có nghĩa là làm chủ, như tri phủ, tri huyện. . . 
6. Càn dĩ dị tri, khôn dĩ giản năng. 
Dịch: Càn (nhờ đức cương kiện mà động nên) dễ dàng, không tốn sức mà làm chủ tác động lúc mới đầu; Khôn (nhờ đức nhu thuận mà) đơn giản, không rối ren mà tác thành vạn vật. 
Chú thích: tiết là tiếp tiết trên. Tiết trên nói về công dụng của Càn, Khôn; tiết này nói về đức của Càn, khôn. Chữ tri ở đây nghĩa như chữ tri ở trên, chữ năng ở đây nghĩa như chữ tác ở trên. 


Đọc văn
Đoạn này không có gì khó lắm về văn tự nên có thể đọc thông cả 5 tiết, sau khi đã thoát tiết đầu tiên. Văn tự Tàu theo công thức "đề thừa phá luận"  thường khó nhất là câu "đề" (nêu vấn đề), vì thường tối như hũ nút. Càng hũ nút càng được khen hay, uyên áo, nên trái hẳn với cách của phương Tây, vấn đề đặt ra phải đơn giản rõ ràng, khả thi, có phạm vi để không đi vào vu khoát.  Do đó có đoạn "thừa" làm sáng tỏ ý nghĩa của đề. Thường đoạn này hay có xu hướng tầm thường hóa, không ít trường hợp làm hỏng đề và cũng không ít trường hợp không đáng bỏ thời gian ngẫm nghĩ tán dóc quá nhiều như các cụ hủ nho.
Điều đáng nói là thumb up cho cụ Nguyễn Hiến Lê về phiên âm đoạn này vì có 2 cái bẫy đối với đa số người mới học hoặc tậm toạch nho nhoe như mình: "Kiền tri thái thủy", nhiều người, nhiều sách phiên thành "Kiền tri đại thủy" do không bám vào ý nghĩa khi phiên âm. "Kiền dĩ dị tri" nhiều người nghĩ là đang nói chuyện về Dịch nên phiên thành "Kiền dĩ Dịch tri". Tuy nhiên, khen như vậy là hỗn láo, vì đối với bậc túc học như cụ Nguyễn Hiến Lê mấy cái này là chuyện nhỏ, không thể so với đám đông ẩu xị được.
 Ý nghĩa của đoạn này cũng không có gì đáng nói nhiều. Vấn đề là dịch ra tiếng Việt sao cho thuận, êm tai như nguyên bản và đừng để mất nghĩa hoặc bịa thêm nghĩa chủ quan. (Cụ Nguyễn Hiến Lê vẫn hơi tán rộng một chút)
Tạm dịch:
     2. Chính vì vậy, cương nhu cọ xát, tám quẻ đan xen.
    3. Gióng lên để ra sấm sét, tưới đẫm để thành gió mưa, nhật nguyệt xoay vần, lúc lạnh lúc nóng.
    4. Theo lối Kiền thành tính nam, theo lối Khôn là tính nữ.
    5. Kiền nắm rõ khởi đầu, Khôn tác thành sự vật.
    6. Kiền để hiểu đời dung dị, Khôn để giản tiện công việc

Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
     Cụm từ "chính vì vậy" sẽ giới hạn các nghĩa đã giải ở tiết 1. Về đại thể các tiết 2 và 3 chỉ nói về việc cấu thành quá trình vận động của dịch, âm dương xen kẽ, tuần hoàn, từ bắt đầu manh nha đến lúc cực điểm, đều trải qua chuyển dịch có thứ tự, liên tục, không đứt đoạn, nhảy cóc; có lớp lang, không đi tắt đón đầu, đốt cháy giai đoạn. Phương Tây có quá trình adiabatic, không gây hỗn loạn.
   Tiết 4-6, cần đọc theo mạch liên kết với nhau, thì sẽ tập trung được vào ý chính của chương. Cụ Nguyễn Hiến Lê có xu hướng giảng tách bạch nên phóng tay suy luận.
    Ở đây chỉ gợi ra nguyên tắc hiểu Dịch bắt đầu từ hiểu nguyên lý vận động giữa Kiền và Khôn. Dịch có bát quái, 64 quẻ, nhưng mọi đạo lý đều nằm ở Kiền và Khôn, vì thế không vội đi sâu vào Chấn Tốn hay bất cứ quẻ nào khác. Tiết 3 chỉ là gợi ra ví dụ hiện tượng để nói rằng cần phải hiểu đạo Kiền Khôn mới hiểu quá trình từ khi khua động ra đến sấm sét, kể từ tưới đẫm ra đến gió mưa.
    Tại sao lại có Tiết 4? Ở đây cụ Nguyễn Hiến Lê bàn hơi rộng, cho rằng nam nữ không quan trọng mà chỉ là nói về người quan hệ với Đạo, quy luật, chưa được rõ về logic. Thực ra mạch văn ở đây là lấy một ví dụ về Kiền Khôn qua tính nam và tính nữ để thấy được quan hệ Kiền Khôn. Qua ví dụ này có thể hiểu mọi quan hệ giữa mọi cặp thể hiện Kiền Khôn khác như Lý thuyết-Thực hành, Cứng-Mềm, Dương-Âm,...
      Qua ví dụ nam - nữ, có thể thấy Kiền (trong ví dụ là Nam) khởi đầu, Khôn (trong ví dụ là Nữ) sinh sản ra sự vật. Có thể hiểu một cách phồn thực, cụ thể. Do Kiền là khởi đầu nên trọng ở chỗ nắm rõ cách thức, khái niệm một cách dễ dàng. Khôn sinh sản nên phải có xu hướng đơn giản hóa để thực hành. Trong quá trình học Dịch cần nắm vững nguyên lý chi tiết đến mức dễ hiểu, khi liên hệ thực tế cần đơn giản. Tán nhăng cuội  ngoài văn tự khi đọc Dịch cũng là phản Dịch.

Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

Ngã học Dịch [1] Hệ từ Truyện Thiên Thượng Chương 1 Tiết 1

Bắt đầu đọc Dịch. Theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê. Mong các cao nhân có sách trong tay, bổ túc thêm từ các bản của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố và các bản khác.
Nguyên văn
   卑,乾   矣。卑   陳,貴   矣。動   常,剛   矣。方   聚,物   分,吉   矣。在   象,在   形,變  矣。  
Phiên âm: Nguyễn Hiến Lê
Thiên tôn địa ti, Càn khôn định hĩ; ti cao dĩ trần, quí tiện vị hĩ.  Động tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hĩ.  Phương dĩ tụ loại, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hĩ.  Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hoá hiện hĩ.  
Dịch: Nguyễn Hiến Lê 
(Vì thấy) trời cao đất thấp (mà thánh nhân) vạch ra quẻ Càn và quẻ Khôn; cao thấp đã bày ra thì định được quí và tiện (dương quí mà âm tiện). 
Động và tĩnh đã có luật nhất định do đó mà phân biệt cương và nhu (dương là cương động; âm là nhu, tĩnh). 
Việc (1) có xu hướng phải trái nên sắp với nhau thành nhóm; vật có hình riêng nên chia ra từng bầy; do đó mà đặt ra lời cát và hung. 
Xem trên trời thấy (nhật nguyệt tinh thần . . .) thành ra nhiều tượng; xem dưới đất thấy (núi sông, vạn vật . . .) thành ra nhiều hình; sự biến hoá như vậy đã hiện rõ. 
Chú thích: (Nguyễn Hiến Lê)

Tiết này nói về nguồn gốc và nguyên lý Kinh dịch. 
(1). Chữ phương ở đây có người hiểu là nơi và dịch: các loài tụ lại từng phương. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. R. Wilhelm dịch là biến cố. 

 
Đọc lại
   Cách đọc của chúng tôi dựa trên các nguyên tắc sau đây:
    a) Phân tích sau đây dựa trên "án tại hồ sơ" dựa vào văn tự, văn cảnh, cấu trúc mạch văn và tham chiếu các đoạn văn cổ để tìm nghĩa cổ ngoài từ điển. 
   b) Khắc phục hạn chế thâm căn cố đế của các "cụ" vốn hay suy luận theo ý chủ quan, ép các ý tưởng có sẵn trong đầu cho sách. Thành thử tranh luận liên miên không bao giờ dừng để làm được cái gì cho ra hồn. Thực tế là lợi dụng Dịch để tuyên truyền mê tín dị đoan hay quan điểm chính trị.
   c) Chúng tôi, hậu sinh, không có thời gian và điều kiện đọc rộng, thuộc kỹ, nhớ sâu, nhưng có phần mềm và máy tìm kiếm, nói có sách, mách có chứng. "Cụ" nào muốn tranh luận để cùng xây dựng kiến thức đi đến chân lý đều sẵn sàng phục vụ, điều kiện duy nhất là bình đẳng và không để bụng. Nếu các "Cụ" đưa ra các lý lẽ thuyết phục hơn chúng tôi càng thấy vui, vì được mở mang tầm mắt.
      Đoạn này có thuận lợi là có công thức điệp ngữ gồm 5 câu XXX, YYY hĩ, như vậy không những văn cảnh, ý chung của cả đoạn mà từng từ ngữ cũng liên quan chặt chẽ với nhau. Cụ Nguyễn Hiến Lê phiên âm một chữ  thành "đoán" không trúng văn cảnh lắm. Nguyên chữ này có hai phiên âm "đoán" và "đoạn". "Đoạn" là phiên âm của nghĩa chặt đứt, tách biệt, rời bỏ như trong "đoạn tuyệt". "Đoán" được phiên âm trong phân xử "xử đoán", "đoán xét", "chẩn đoán". Phiên âm sai cũng dẫn đến hiểu sai và ngược lại.

Phiên âm và sắp lại theo điệp ngữ.
Thiên tôn địa ti, kiền khôn định hĩ. 
Ti cao dĩ trần, quý tiện vị hĩ.
Động tĩnh hữu thường, cương nhu đoạn hĩ. 
Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hĩ. 
Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa kiến hĩ.
Dịch theo văn
Trời sang đất hèn, mà Kiền Khôn định rõ. 
Cao thấp để sắp đặt, mà sang hèn có nơi chốn. 
Động tĩnh có phép tắc, mà cương nhu tách biệt. 
Lấy mẫu hình để nhóm  đồng loại, lấy cá thể để tách khỏi quần thể, mà cát hung sinh thành.
Trên trời thành tượng, dưới đất thành hình, mà thấy được biến hóa.   
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
  1. Phiên âm "cương nhu đoạn hĩ" chữ "đoạn" đây giống như trong "đoạn tuyệt", phân biệt rành mạch, cưa đứt đục suốt.
  2. Muốn dịch được tiết này trước hết cần xét cấu trúc theo lối điệp văn dồn dập gồm 5 câu theo công thức "XXX, YYY hĩ" trong đó YYY là hệ quả của XXX. Do đó hĩ có thể dịch là "rồi". Tuy nhiên dịch là "XXX, mà YYY" nghe uyển chuyển và dễ thấy quan hệ nhân quả hơn.
 3. Khó nhất  là câu "Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân, cát hung sinh hĩ". Điểm mấu chốt là hiểu được chữ "phương" và chữ "vật". Cả hai chữ này nếu tách riêng thì có rất nhiều nghĩa. Nhưng trong câu này và trong mạch văn của tiết này thì chỉ có một số khả năng hạn chế, giúp cho việc hiểu câu này dễ hơn. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu kỹ câu này. Dịch xong câu này, ý nghĩa của cả tiết sẽ rõ ràng.
4. Tựu chung có 3 cách giải thích chữ "phương" ở đây
    (a) Phương thuật: Phương pháp, cách thức, phương hướng.
    (b) Phương vị: Nơi chốn, địa điểm. (Nam Hoài Cẩn trong "Dịch kinh hệ truyện biệt giảng" phản bác nghĩa phương thuật cho rằng phương thuật không thể "tụ loại". Lệnh mỗ cho rằng lý lẽ phản bác không hoàn toàn thuyết phục, dù tiên sinh có thể đúng)
    (c) Mẫu hình, loại hình: Theo Thẩm Thiện Tăng trong "Hoàn ngô Trang tử" , "phương" ở thời Tiên Tần có nghĩa là một tập hợp vật thể lớn hơn so với "loại". Ví dụ Tử Du (Ngôn Yển, một trong Thập Triết, học trò của Khổng Tử) có nói "Cảm vấn kỳ phương?" (Dám hỏi ngài thuộc "phương" nào?) Hoặc trong "Mặc tử kinh thuyết hạ" có viết "Nhất phương tận loại, câu hữu pháp nhi dị"  Từ một "phương" đến tất cả các loại, đều có cách để phân biệt. 
   Vậy "phương" ở đây nghĩa là gì?
    Do câu văn biền ngẫu hô ứng, nếu nắm được nghĩa của "vật" sẽ xác định được nghĩa của "phương". Đọc lại "phương là để tụ loại, vật là để quần phân". Quan hệ giữa "phương" và "vật" sẽ xác định bởi quan hệ giữa "tụ loại" và "quần phân".
     "Tụ loại" là việc hình thành một khái niệm, một loại hình. Nhiều cá thể giống nhau, nhóm họp lại, được trừu tượng hóa thành một khái niệm.
      "Quần phân" là việc một cá thể tách ra khỏi quần thể của nó bằng một điểm khác biệt nào đó.
          Ví như: Một cô gái được gọi là cô gái do có một số tính chất chung nào đó. Nhưng cô gái của bạn sở dĩ duy nhất là nhờ có khác biệt nào đó.
      Theo quan điểm hiện đại, chính lý thuyết nhóm đối xứng là để phân loại, giúp hình thành các khái niệm. Vi phạm đối xứng, sẽ phân biệt một cá thể khỏi quần thể. Dường như nghĩa (c) có liên quan nhiều nhất với việc hình thành khái niệm và tách biệt cá thể.
        Hơn nữa, chữ Hán có danh từ và động từ "phương vật". Chúng ta hãy xem xét một số nghĩa liên quan, ngõ hầu tìm được từ nguyên cổ của chúng để truy ra nghĩa "phương" và "vật" cổ có trong Dịch Kinh.
      Danh từ "phương vật" có hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất là thổ sản là phẩm vật địa phương. Nghĩa thứ hai là việc "bàn luận phân biệt danh phận". Đây là nghĩa có thể liên quan.
      Động từ "phương vật" có trong sách Quốc Ngữ " Cập thiểu hạo chi suy dã, cửu lê loạn đức, dân thần tạp nhữu, bất khả phương vật"  nghĩa là "Đến khi (vua) Thiếu Hạo suy, (tộc) Cửu Lê làm loạn đạo đức, người và thần lẫn lộn, không thể "phương vật"" Cụm từ "bất  khả phương vật" còn được dùng trong "Sử Ký Tư Mã Thiên" và "Hậu Hán Thư", đều có thể dịch là "phân biệt danh phận". Sau này, phương vật mới được dùng theo nghĩa rộng hơn là so sánh, đồng loại, khi đó "bất khả phương vật", ý nói không thể so sánh, xuất sắc. Ví dụ như Kim Dung tả Triệu Minh trong Ỷ thiên đồ long ký "Minh diễm bất khả phương vật" Đẹp rực rỡ không gì so sánh được. Nghĩa là còn hơn Thúy Kiều còn so với "làn thu thủy, nét xuân sơn". 
      Phương thời cổ có nghĩa là "so sánh, phân loại". Trong Minh Sử-truyện Hải Thụy, có ghi câu nói của Gia Tĩnh về Hải Thụy "Thử nhân khả phương tỷ can, đệ trẫm phi trụ nhĩ" Người này có thể so cùng Tỷ Can, nhưng Trẫm không phải là Trụ". 
      Nghĩa này được suy rộng ra nghĩa hiện đại là "chính trực, ngay thẳng" như trong "chân phương".
      Lấy ví dụ nhiều như thế là  để tìm từ nguyên cổ của "phương", cũng đối chiếu với ngữ cảnh hiện đại, cũng như ý nghĩa trong văn cảnh, ta có thể khẳng định (c) có thể gần với nghĩa trong văn cảnh nhất.
       Bây giờ chúng ta xem nghĩa (c) có thể suy ra  việc sinh thành cát hung, tương tự với các câu khác trong tiết hay không? Việc gồm nhóm và phân tách cá thể quả thực có thể báo hiệu lành hay dữ. Những cá biệt đều báo điềm dữ, chân phương, chính trực, theo phép tắc báo hiệu điều lành. Đó chính là tuyên ngôn đầu tiên của Dịch.
       Cụ Nguyễn Hiến Lê chắc cũng thấy đoạn này khó nên nói là theo cụ Phan Bội Châu "phương" có nghĩa là nơi chốn, có phần phiến diện và sơ sài. Chính vì thấy bất cập nên phải tán bịa theo ý chủ quan. Không hiểu các cụ khác phán thế nào?