The song by Phu Quang, Singer: Bang Kieu
Chapter 1.Prelude
1. The scent of night
2. Dating place
3.Empty road
4. Sad eyes
Chapter 2. Nostalgia
5. Childhood
Forewords:
As we grow up, one day the first love knocks on the door. Hanoian street was peaceful in a old year's summer afternoon. The sunlight just dimmed away in the shadow of the old ivy, with unforgettable scent, when we had the first dating. The ringing laughter of the girl suddenly ended, when the couple stared at each other with a strange look. The first kiss is premature like the fruits picked early on the trees of Hanoi. But it is sweet until now. We still listened to the guitar melody played by a blind musician of Hanoian streets. My soul is blue and full of the blue color of the hanoian night sky.
Chúng ta đều lớn lên, rồi sẽ có một ngày tình đầu đến gõ cửa. Phố phường Hà Nội êm đềm trong một chiều mùa hạ năm nào. Nắng vừa chợt tắt trong một góc vườn dưới giàn hoa thiên lý đang tỏa hương ngất ngây. Tiếng cười lanh lảnh của người thiếu nữ chợt tắt, khi ánh mắt của họ chợtt thảng thốt, sững sờ. Cái hôn đầu tiên vụng dại còn xanh, như thuở trèo me trèo sấu ngắt quả trộm trên cành, chia nhau vội vã. Nhưng vị ngọt vẫn say đến bây giờ. Anh và em vẫn còn nghe lại được giai điệu guitar cũ của người nhạc sĩ mù ở phố phường Hà Nội xưa. Tâm hồn anh vẫn còn choáng ngợp nỗi buồn và màu tím xa xưa của bầu trời đêm Hà Nội.
6. The first love *
I still retain you
Under the shadow of the old ivy
The aroma of the first dating
The first love is sweet ecstatically
Even the kisses do not have maturity
Like the fruits picked in hurry
I still retain you
In the moment your laughter suddenly ended
In a secluded wild garden, where we meet
In the late afternoon sunlight
The joyful summer day
Had faded away
I still retain you
In the guitar melody
Telling stories about you and me
One time for us
The capital night
Blue outside and inside ...
Original text
6. Tình đầu *
Ta còn em giàn thiên lý,
Năm xưa
Thơm mùi hò hẹn
Cuộc tình đầu ngọt lịm.
Những nụ hôn xanh ngắt trên cành...
Ta còn em chuỗi cười vừa dứt.
Nắng chiều vàng ngọn cỏ
Vườn hoang
Ngày cũ vui tàn theo mùa hạ...
Ta còn em tiếng ghita
Bập bùng tự sự
Đêm kinh kỳ một thuở
Xanh lơ...
Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016
Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016
Vũ Tường – Đọc Việt Nam 1946: Chiến tranh đã bắt đầu ra sao
Thứ Ba, ngày 31 tháng 8 năm 2010
Đăng lại từ Talawas
Điểm sách Vietnam 1946: How the War Began (From Indochina to Vietnam: Revolution and War in a Global Perspective) của Stein Tonnesson, NXB ĐH California, Berkeley, 2010.[1]
Năm 1946 là một thời điểm rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam khi nước này vừa thoát ra khỏi ách thuộc địa. Trong quyển Vietnam 1946, sử gia Na Uy Stein Tonnesson theo dõi quá trình diễn biến quan hệ Việt-Pháp từ nhân nhượng đến xung đột qua hai biến cố: Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và biến cố 19-12-1946 khi chiến tranh bùng nổ. Tonnesson trình bày hai phát hiện quan trọng. Thứ nhất, Hiệp định sơ bộ 6-3 có được do công của các tướng lãnh Quốc dân Đảng Trung Quốc đã cố gắng môi giới cho cả hai bên Pháp Việt tiến hành đàm phán. Mặc dù thực ra sau năm 1945, Paris chỉ muốn bảo vệ quyền lợi của Pháp ở Nam bộ, các viên chức Pháp ở Đông Dương đặt kế hoạch giành quyền kiểm soát lâu dài cả miền Bắc khi họ điều quân ra Bắc để thay thế quân đội chiếm đóng Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nếu không có phía Quốc dân Đảng Trung Quốc gây áp lực mạnh đối với cả hai bên Pháp Việt để ký Hiệp định sơ bộ 6-3, chiến tranh có lẽ đã bùng nổ vào lúc đó. Phát hiện thứ hai của Tonnesson liên quan đến câu hỏi ai chịu trách nhiệm đối với việc chiến tranh nổ ra vào ngày 19-12-1946. Cũng như đối với trường hợp trên, Tonnesson cho thấy những viên chức Pháp ở Đông Dương làm trái với chỉ thị của chính phủ Pháp khi họ khiêu khích chính phủ Việt Minh để nhử Việt Minh tấn công trước. Quân đội Việt Minh đã cố gắng không trả đũa các trò khiêu khích của quân Pháp trong một thời gian, nhưng cuối cùng đã sập bẫy và nổ súng vào ngày 19-12, chỉ vài ngày sau khi chính phủ Đảng Xã hội lên cầm quyền ở Pháp và mở ra triển vọng đạt được hòa bình bằng con đường thương thuyết. Tonnesson cũng phê bình tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng tư lệnh của Việt Nam, vì đã ra lệnh khai chiến hoặc đã không ngăn cản được binh sĩ của ông ta nổ súng vào đêm 19-12-1946.
Tonnesson sử dụng rất nhiều tài liệu chủ yếu từ các kho lưu trữ ở các nước phương Tây. Rất rõ ràng và thuyết phục, ông cho thấy vì nhiều lý do, Paris đã bỏ bê tình hình ở Đông Dương, thông tin giữa Paris và Sài gòn (nơi Cao ủy Pháp đóng bản doanh) bị lệch pha, và các chỉ huy Pháp ở Sài gòn đã có những hành động dẫn đến chiến tranh. Chủ yếu dựa trên tư liệu Pháp kết hợp với một ít tư liệu Việt Nam, Tonnesson dựng lại bức tranh khá chi tiết mô tả các biến cố xảy ra từng giờ trong ngày 19-12 cực kỳ quan trọng. Bức tranh này phức tạp hơn nhiều so với câu chuyện chúng ta vẫn nghe về biến cố này như một cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng Pháp do quân đội Việt Minh tổ chức. Mặc dù tướng Giáp đúng là có soạn ra một kế hoạch tấn công như vậy từ trước, Tonnesson cho thấy rằng quyết định tấn công chỉ được đưa ra vài giờ trước khi nổ súng, và cũng không thể loại trừ khả năng binh sĩ dưới quyền tướng Giáp tự tiện nổ súng không có lệnh trên [và ông ta chỉ còn cách phải tuyên chiến với Pháp vì việc đã lỡ xảy ra].
Không chỉ soi rọi các biến cố xảy ra trong năm 1946, công trình của Tonnesson còn có ba đóng góp rộng hơn đối với lịch sử Việt Nam. Đóng góp thứ nhất là về vai trò của Quốc dân Đảng Trung Quốc trong diễn tiến lịch sử Việt Nam. Cho đến nay, giới sử học đã coi nhẹ vai trò của Quốc dân Đảng Trung Quốc đối với sự tồn tại của chính phủ Hồ Chí Minh. Nếu người Trung Quốc đã làm như người Mỹ ở Seoul (từ chối không công nhận một chính phủ thiên tả vừa mới thành lập sau khi Nhật đầu hàng), hay như người Anh ở Sài Gòn và Jakarta (cho phép quân đội Pháp và Hà Lan trở lại khôi phục thuộc địa cũ đã bị Nhật chiếm trong Thế chiến II), chính phủ Hồ Chí Minh có rất ít cơ hội sống sót. Bộ chỉ huy quân chiếm đóng Quốc dân Đảng Trung Quốc giúp chính phủ Hồ Chí Minh qua việc ép buộc các nhóm chống cộng là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội phải tham gia vào chính phủ Việt Minh và ký Hiệp định sơ bộ 6-3. Mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương không thực sự chia sẻ quyền lực với các nhóm này, việc họ tạm thời chấp nhận tham gia vào chính phủ Việt Minh cho phép chính phủ này tuyên bố là Việt Minh đại diện cho tất cả mọi giai cấp và phe nhóm Việt Nam. Thay vì cảm ơn Tưởng Giới Thạch và các tướng lĩnh của ông ta, lịch sử quan phương ở Việt Nam lại chê trách họ: người Trung Quốc bị xem là một kẻ thù còn tệ hơn người Pháp. Các học giả Tây phương (trừ King Chen) cũng rất hay chỉ ra tính chất vô kỷ luật và thổ phỉ của quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc, nhưng quên mất vai trò quan trọng của họ đối với vận mệnh chính phủ Hồ Chí Minh.
Đóng góp thứ hai của Vietnam 1946 là góp thêm chứng cứ cho luận điểm ngược lại với quan điểm lịch sử quan phương về sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản Đông Dương trong và sau “Cách mạng tháng Tám.”[2] Bức tranh ngày càng rõ nét cho thấy một Đảng Cộng sản Đông Dương yếu ớt, phải dựa vào những lực lượng khác để giữ chính quyền, mặc dù có thể Đảng này có tổ chức mạnh nhất so với tất cả. Đảng có rất ít quyền kiểm soát đối với chính quyền địa phương ngoài những thành phố lớn. Việc giải thể Đảng Cộng sản Đông Dương vào cuối năm 1945 làm cho tình hình này tồi tệ hơn. Dựa trên tư liệu của tình báo Pháp, Tonnesson (tr. 24) suy đoán rằng “công tác Đảng bị các lãnh đạo Đảng (nếu không phải là chính Trường Chinh) xem nhẹ trong giai đoạn 1946-47 vì họ bận rộn với công việc quản lý nhà nước.” Giả thuyết binh sĩ của tướng Giáp nổ súng tấn công Pháp bất chấp lệnh trên vào tối 19-12 góp thêm một chi tiết vào bức tranh chung trên.
Thứ ba, Tonnesson chia tay với một xu hướng chủ đạo trong Việt Nam học từ thập niên 1960. Các học giả theo xu hướng này né tránh việc phê phán các lãnh tụ cộng sản Việt Nam khi cần phải phê phán.[3] Theo xu hướng này, những người cộng sản được mô tả như chỉ quan tâm thuần túy và chính đáng đến việc giành độc lập dân tộc, nhưng bị buộc phải tiến hành chiến tranh tự vệ chống lại các thế lực xâm lược ngoại bang. Có vẻ như họ không bao giờ phạm sai lầm, mà nếu có phạm thì cũng rất thành thật thú nhận. Xu hướng này có lẽ do việc nhiều sử gia quá tin vào hồi ký của các lãnh tụ cộng sản như Trần Huy Liệu và Võ Nguyên Giáp. Không có gì lạ khi các nhân vật này tô vẽ hào quang lên Đảng của họ và lờ đi những sai lầm. Tonnesson mở đầu quyển Vietnam 1946 bằng việc kiểm điểm lại số người chết vì chiến tranh ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Con số này lên đến hàng triệu người, cả người Việt lẫn nước ngoài. Tonnesson tin rằng tất cả những cuộc chiến tranh này đều có thể đã tránh được nếu chính phủ Việt Minh đã biết tự kiềm chế vào cái ngày định mệnh 19-12-1946 đó. Trong khi Tonnesson không trách Hồ Chí Minh về biến cố này, ông cho rằng Võ Nguyên Giáp có trách nhiệm để cho chiến tranh xảy ra, mặc dù trách nhiệm của ông ta ít hơn các quan chức Pháp như Đô đốc Georges D’Argenlieu, Leon Pignon, và tướng Jean-Etienne Valluy. Tệ hơn nữa, Tonnesson cho rằng Võ Nguyên Giáp là một người bướng bỉnh tự cho rằng ông ta không có trách nhiệm gì, mặc dù các chứng cớ lịch sử cho thấy khá rõ trách nhiệm của ông ta để cho chiến tranh xảy ra. Theo Tonnesson (tr. 257), “Đối với tướng Giáp, người chịu trách nhiệm rất lớn không chỉ đối với quyết định tấn công [ngày 19-12], nhưng đối với tất cả những thiệt hại nhân mạng và các khổ đau khác trong những cuộc chiến kế tiếp ở Đông Dương, ý nghĩ rằng chuỗi thảm kịch đó có thể bắt đầu từ một sự hiểu lầm là không thể chấp nhận được.”
Quyển sách có một điểm yếu quan trọng: đó là việc dùng rất ít tư liệu từ Việt Nam. Mặc dù Kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa cho phép các nhà nghiên cứu sử dụng tư liệu, có nhiều bộ Văn kiện Đảng đã được xuất bản, đặc biệt là bộ mới in gần đây từ năm 1999.[4 ]Các văn kiện trong Tập 8 (1945-1947) của bộ sách này cho thấy rõ sự tồn tại của cơ quan Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương vào thời điểm này.[5] Nhân vật bí ẩn trong tư liệu tình báo Pháp có tên là “Nhân Nhân” rất có thể là Trường Chinh, vì ông ta đôi khi ký tên Nhân dưới một số văn kiện.[6]
Chỉ đọc lướt qua Tập 8 nói ở trên, chúng ta có thể nêu thêm bốn sự việc quan trọng nhìn từ phía Việt Nam để bổ sung bức tranh phía Pháp do Tonnesson vẽ ra. Sự việc thứ nhất là chính phủ Hồ Chí Minh có vẻ sợ các đối thủ Việt Nam (Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội) hơn sợ Pháp. Trong một văn kiện ngày 3-3-1946, Thường vụ Trung ương giải thích lý do Đảng quyết định ký Hiệp định sơ bộ 6-3 với Pháp như sau. Trung ương Đảng nghĩ rằng nếu Việt Minh đánh nhau với Pháp sẽ có lợi cho Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội chứ không có lợi cho Đảng Cộng sản Đông Dương. Lãnh tụ Đảng thừa nhận rằng “chủ hòa lúc này có hai chỗ nguy hiểm: a) Bọn phản động lợi dụng tinh thần kháng chiến của quần chúng mà tuyên truyền phỉnh dân và vu ta là phản quốc, là bán nước cho Tây; b) bọn thực dân Pháp có thể tăng gia lực lượng trên đất ta để một ngày kia bội ước diệt ta.” Tuy nhiên, lãnh đạo Đảng cho rằng có hai điều lợi lớn khi ký Hiệp định sơ bộ: một là “phá được mưu mô bọn Tàu trắng, của bọn phát xít, và của bọn Việt gian, bảo toàn được thực lực;” và hai là, “dành được giây phút nghỉ ngơi để sửa soạn cuộc chiến đấu mới… tiến tới giành độc lập hoàn toàn.”[7] Một trong những biện pháp đầu tiên Đảng muốn thi hành ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ là “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta và Pháp.” Văn kiện này chứng tỏ rằng cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm người Việt cũng quan trọng không kém cuộc tranh giành độc lập giữa tất cả người Việt và thực dân Pháp. Việc Đảng Cộng sản Đông Dương e ngại các kẻ thù người Việt hơn là Pháp cho thấy rằng các biến cố năm 1946 không chỉ liên quan đến nền độc lập của Việt Nam mà còn đến việc giành quyền lãnh đạo đất nước của các đảng phái Việt Nam.
Sự việc thứ hai: tư liệu Việt Nam cho thấy lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương kỳ vọng rất nhiều vào Hiệp định sơ bộ 6-3, không phải như Tonnesson (tr. 5) nghĩ rằng họ chỉ ký cho xong chuyện nhưng sau đó sẽ tìm cách thoái thác thi hành. Thực ra họ coi Hiệp định sơ bộ 6-3 là một bước tiến quan trọng so với tuyên bố của De Gaulle cho Đông Dương tự trị ngày 24-3-1945. Mặc dù theo Hiệp định sơ bộ 6-3, Việt Nam chưa được độc lập, một văn kiện Đảng viết rằng “Pháp đã từ bỏ tham vọng lập lại chế độ thuộc địa tại Việt Nam và công nhận nguyên tắc tự do và thống nhất của ta. Kẻ thù trực tiếp của chúng ta bây giờ là bọn phản động Pháp…”[8] Ít nhất là vài tháng sau khi ký Hiệp định sơ bộ, lãnh đạo Đảng vẫn muốn tiếp tục đàm phán trên cơ sở Hiệp định sơ bộ chứ không phải thoái thác thi hành, mặc dù họ vẫn tiếp tục chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh vũ trang nếu cần thiết. Thái độ lạc quan của họ khi nghĩ rằng người Pháp đã từ bỏ tham vọng lập lại chế độ thuộc địa có lẽ là lý do tại sao Đảng Cộng sản Đông Dương sợ Pháp ít hơn sợ các đảng phái Việt Nam khác.
Sự việc thứ ba: Tonnesson chĩa mũi dùi phê phán vào tướng Giáp với tư cách người chịu trách nhiệm chính bên phía Việt Nam đối với việc chiến tranh bùng nổ. Tonnesson có nhắc đến việc Trường Chinh thuộc phe chủ chiến, nhưng tư liệu Việt Nam cho thấy giàn lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng sản Đông Dương đều ủng hộ tướng Giáp. Sau vụ tàn sát ở Hải Phòng, Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác (Đảng Cộng sản Đông Dương trá hình) ra tuyên bố khen ngợi các chiến sĩ Việt Nam đánh nhau với Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn và kêu gọi cảnh giác và tăng cường chuẩn bị chiến tranh. Tuyên bố này nói rằng Tạm ước 14-9-1946 (do chủ tịch Hồ Chí Minh ký ở Pháp) là “một bước nhân nhượng cuối cùng.”[9] Cùng lúc đó, Trường Chinh viết một bài với giọng điệu sặc mùi chiến tranh và máu lửa: “toàn dân sẵn sàng đứng dậy; tay đã để vào cò súng, mắt đã ngắm vào đầu bọn cướp nước, những bắp thịt đã căng thẳng; chỉ chờ lệnh là hàng triệu người ào tới băm vằm quân tàn bạo.” Trường Chinh hướng mối căm thù của ông ta không chỉ vào thực dân Pháp mà vào cả những người Việt không thích chiến tranh: “Phải gạt phăng những lời khuyên đầu hàng của bọn tự nhận là “bạn” ta hay của thù ta. Phải kịp thủ tiêu những chủ trương tháo lui, dao động của những kẻ non gan trong hàng ngũ dân tộc. Phải trừng trị thẳng tay những kẻ làm tay sai cho địch, bất kỳ trong tầng lớp nhân dân nào… Trước khi xông lên ngăn địch, phải chặt những dây dợ vướng chân.”[10] Mặc dù tướng Giáp có thể đã một mình ra quyết định nổ súng vào tối hôm đó, chắc hẳn ông ta có sự đồng thuận của ban lãnh đạo Đảng. Các biến cố năm 1947 ăn khớp với cách suy luận này. Sau khi chiến tranh bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị Cán bộ Trung ương để phân tích tình hình thế giới và trong nước, đồng thời thảo luận các chính sách và kế hoạch cần thiết. Bản nghị quyết dài 33 trang của Hội nghị này chỉ nói đến công tác ngoại giao trong một đoạn ngắn như trích dẫn một phần dưới đây:
Vấn đề ngoại giao: vấn đề Việt Nam vừa được đem ra bàn cãi náo nhiệt ở Quốc hội Pháp. Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Liên đoàn Lao động Pháp vừa tỏ rõ thái độ đối với Chính phủ Pháp giảng hòa với Việt Nam. Bọn Đờ Gôn lại hoạt động mưu cho phản động thế giới mà lật đổ chế độ cộng hòa Pháp. Đứng trước tình hình ấy, đoàn thể [đây là nói đến Đảng Cộng sản Đông Dương] phải theo dõi từng tí thời cuộc và chính trị nước Pháp. Nếu Pháp nhận Việt Nam độc lập và thống nhất, nhưng phải làm cho cán bộ và nhân dân hiểu rằng, chưa đánh đến hết gia đoạn thứ ba của cuộc trường kỳ kháng chiến, thì dù có dàn xếp cũng chưa thể giải quyết hẳn được sự xung đột giữa ta và thực dân Pháp. Chẳng qua tạm hòa hoãn để dành thời gian, v.v… Bởi vậy tuy phải lợi dụng hết khả năng ngoại giao, làm cho cuộc đổ máu Việt-Pháp rút ngắn lại, nhưng không thể có thái độ chủ quan đối với những cuộc đàm phán và nhất là không được sơ hở để quân địch lợi dụng… đánh úp ta.[11]
Lãnh đạo Đảng có vẻ không đặt nhiều niềm tin vào chính phủ Đảng Xã hội của Pháp, cũng không có vẻ luyến tiếc rằng chiến tranh đã xảy ra. Mặc dù Hồ Chí Minh vẫn tìm cách đàm phán với Pháp và giao một số Bộ trong chính phủ cho các nhân vật không cộng sản vào đầu năm 1947, Trường Chinh và Lê Đức Thọ ban những chỉ thị cảnh cáo nghiêm khắc quần chúng không nên đặt quá nhiều hy vọng vào ngoại giao.[12]
Sự việc thứ tư: Tonnessson (tr. 10) cho rằng “bổn phận căn bản nhất của mọi chính phủ” là bảo vệ hòa bình, nhưng tư liệu Việt Nam chỉ ra rằng nhiều lãnh tụ Việt Nam không nghĩ như vậy. Quan điểm của họ về chiến tranh và hòa bình phải được đặt trong thế giới quan Mác-Lê đầy dẫy những tư tưởng cách mạng cực đoan.[13] Theo thế giới quan này, tương lai của thế giới sẽ được quyết định trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Hòa bình với đế quốc chỉ là tạm thời vì bản chất của đế quốc là hiếu chiến và làm giàu nhờ chiến tranh. Hơn nữa, chính trị quốc tế không thể tách rời chính trị quốc nội. Như Trường Chinh từng tuyên bố, những người cộng sản Việt Nam có thể chấp nhận đoàn kết giai cấp tạm thời vì quyền lợi dân tộc, nhưng không bao giờ chấp nhận “thỏa hiệp giai cấp” (hy sinh các quyền lợi căn bản của giai cấp mình vì mục tiêu đoàn kết dân tộc).[14] Việc chung sống hòa bình với bọn đế quốc hay hòa hoãn với kẻ thù giai cấp có vị trí thấp trên thang giá trị của những nhà cách mạng Việt Nam mà tiêu biểu là Trường Chinh. Cuộc chiến tranh với Pháp năm 1946, nếu đúng như Tonnesson mô tả, thể hiện hành vi giống với cuộc cải cách ruộng đất từ năm 1953 đến 1956 mà thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp tàn bạo. Đánh giá theo hướng này, quyết định của tướng Giáp tấn công quân Pháp vào đêm 19-12-1946 không chỉ là một sai lầm chiến lược (như Tonnesson lập luận) mà là kết quả tự nhiên của những bộ óc cuồng tín thích tôn vinh những hy sinh cho các sự nghiệp “cao cả” không chỉ cho độc lập dân tộc mà còn cho cách mạng thế giới.
Để kết luận, dù sử dụng rất ít tư liệu Việt Nam, Vietnam 1946 là một công trình nghiên cứu có giá trị cao. Tonnesson đã giúp chúng ta hiểu biết thêm không chỉ về các sự kiện năm 1946 mà còn về lịch sử Việt Nam.
Chú thích
1. Dịch từ nguyên văn tiếng Anh trên Tạp chí mạng H-Diplo của Hội Nghiên cứu Lịch sử quan hệ đối ngoại Mỹ. Xem bài của các tác giả khác cùng điểm sách của Tonnesson và bài trả lời của ông tại trang web: http://www.h-net.org/~diplo/roundtables/PDF/Roundtable-XI-19.pdf
2. Về những luận điểm trái với lịch sử quan phương, xem Stein Tonnesson, The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh, and De Gaulle in a World at War (Oslo: International Peace Research Institute, 1991); David Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley: University of California Press, 1995) và Vu Tuong, Paths to Development in Asia: South Korea, Vietnam, China, and Indonesia (New York: Cambridge University Press, 2010).
3. Vu Tuong, "Vietnamese Political Studies and Debates on Vietnamese Nationalism," Journal of Vietnamese Studies, 2: 2 (2007), 175-230.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, 1999-2007).
5. Tonnesson (sđd, tr. 29) bày tỏ nghi ngờ về sự tồn tại của cơ quan này, và dựa theo một tài liệu Việt Minh bị Pháp bắt được, kết luận rằng cơ quan này có thật.
6. Tonnesson (sđd, tr. 171) đoán rằng nhân vật này không thể là Trường Chinh vì Trường Chinh không đeo kính như người mà mật thám Pháp theo dõi, nhưng tên “Nhân Nhân” và những chi tiết khác cho thấy người đó là Trường Chinh.
7. “Tình hình và chủ trương.” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, 45.
8. “Chỉ thị của Ban T.V.T.Ư., 9-3-1946. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 50.
9. “Lời kêu gọi quốc dân,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 148.
10. “Đánh và sẵn sàng đánh,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 452-453.
11. “Nghị quyết Hội nghị cán bộ trung ương,” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 186.
12. Vu Tuong, “It’s Time for the Indochinese Revolution to Show Its True Colors: The Radical Turn in Vietnamese Politics in 1948,” Journal of Southeast Asian Studies 40: 3 (Oct 2009), tr. 528.
13. Xem Vu Tuong, “From Cheering to Volunteering: Vietnamese Communists and the Arrival of the Cold War 1940-1951,” trong Christopher Goscha and Christian Ostermann, eds. Connecting Histories: The Cold War and Decolonization in Asia (1945-1962) (Stanford University Press, 2009); và “Dreams of Paradise: The Making of a Soviet Outpost in Vietnam.” Ab Imperio(August 2008), tr. 255-285.
14. Vu Tuong, Paths to Development in Asia, tr. 196.
Vũ Tường là Giáo sư (Assistant Professor), ngành Khoa học Chính trị, Đại học Oregon.
© 2010 Vũ Tường
© 2010 talawas
Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016
Ngã học Dịch [8] Hệ Từ, Thượng Thiên, Chương 3
Nguyên văn:
彖 者,言 乎 象 者 也。爻 者,言 乎 變 者 也。
吉 凶 者,言 乎 其 失 得 也。悔 吝 者,言 乎 其 小 疵 也。無 咎 者,善 補 過也。
是 故,列 貴 賤 者 存 乎 位。齊 小 大 者,存 乎 卦。辯 吉 凶 者,存 乎 辭。
懮 悔 吝 者,存 乎 介。震 無 咎 者,存 乎 悔。
是 故,卦 有 小 大,辭 有 險 易。辭 也 者,各 指 其 所 之。
Phiên âm Hán Việt
Thoán giả, ngôn hồ tượng giả dã. Hào giả, ngôn hồ biến giả dã.
Cát hung giả, ngôn hồ kỳ thất đắc dã. Hối lận giả, ngôn hồ kỳ tiểu tỳ dã. Vô cữu giả, thiện bổ quá dã.
Thị cố, liệt quý tiện giả tồn hồ vị. Tề tiểu đại giả, tồn hồ quái. Biện cát hung giả, tồn hồ từ.
Ưu hối lận giả, tồn hồ giới. Chấn vô cữu giả, tồn hồ hối.
Thị cố, quái hữu tiểu đại, từ hữu hiểm dịch. Từ dã giả, các chỉ kỳ sở chi.
Dịch văn
Thoán nói về tượng. Hào nói về biến hóa.
Cát hung nói về được mất. Hối hận nói về thiếu sót. Gắng bù lỗi thì được vô tội.
Vì thế, giữ vị trí của hào để xếp quý tiện, giữ quẻ để sắp đặt lớn nhỏ.
Lo hối hận, giữ được giới luật, làm phấn chấn sự vô tội, phải giữ sự ăn năn.
Vì thế, quẻ có lớn nhỏ, lời có hung hiểm hay bình an, đều hướng tới điều đó
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
Điểm căn bản của Dịch học là dựa trên khái niệm "tượng" để tìm một lời giải đoán. Cũng giống như phương pháp phân tích khoa học của phương Tây từ dữ liệu đầu vào đưa ra kết luận đầu ra. Cũng là một mối quan hệ nhân quả. Trong một quẻ lại nói về từng hào, là các biến thể khác nhau nhưng có liên quan theo một quy luật nào đó.
Mục tiêu của Dịch là nói về được mất và đưa ra khuyến nghị về cách hành xử. Dịch không đưa ra cách hành xử tuyệt đối. Con người sinh ra ở đời không ai không có lỗi. Gọi là vô tội tức là biết ăn năn mà sửa lỗi mà thôi.
Giới luật chính là biết phân biệt thiện ác ngay cả khi ở ranh giới sai một ly thiện trở thành ác, hoặc ác trở thành thiện. Muốn giữ được giới luật phải biết lo mà hối cải. Vì vậy, quẻ có lớn nhỏ, lời từ đều hướng tới nguy hay an.
Ở đây người học Dịch nảy sinh băn khoăn nghi hoặc, trong một sự kiện có vô vàn "tượng" là sao tóm gọn được về một quẻ. Dường như ở đây Dịch đã giả thiết có tâm lý của người xem quẻ (và người được xem) xen vào. Quẻ có liên hệ tới hai tâm lý đó mà được chọn. Biến của hào là liên tục nên có thể hiểu được phương pháp của Dịch, dựa trên biến hóa tuần tự. Hạ không thể sang Đông nếu không qua Thu. Đang đêm phải qua bình minh mới tới được chính ngọ. Đó là khách quan. Tuy vậy, luận đoán tốt xấu cũng phải dựa trên yếu tố tâm lý và chủ quan mà thôi. Từ tượng vốn đã có yếu tố tâm lý, nên lời giải đoán cũng phụ thuộc tâm lý là lẽ đương nhiên.
Mối quan hệ giữa tâm lý chủ quan và luận đoán gắn liền với các sự kiện khách quan là một điều huyền bí đối với tư duy khoa học và đối với đa số người học ngày nay.
Điều đó là điểm tồn nghi. Không biết nghi ngờ chẳng thà đừng đọc sách. Nhưng phải cởi mở cho dù mâu thuẫn với điều mình đã biết. Dù sao suy đoán của Dịch tuyệt đối chỉ là xác suất, để dần bù đắp dần dần những chỗ sai như nội dung của chương này.
彖 者,言 乎 象 者 也。爻 者,言 乎 變 者 也。
吉 凶 者,言 乎 其 失 得 也。悔 吝 者,言 乎 其 小 疵 也。無 咎 者,善 補 過也。
是 故,列 貴 賤 者 存 乎 位。齊 小 大 者,存 乎 卦。辯 吉 凶 者,存 乎 辭。
懮 悔 吝 者,存 乎 介。震 無 咎 者,存 乎 悔。
是 故,卦 有 小 大,辭 有 險 易。辭 也 者,各 指 其 所 之。
Phiên âm Hán Việt
Thoán giả, ngôn hồ tượng giả dã. Hào giả, ngôn hồ biến giả dã.
Cát hung giả, ngôn hồ kỳ thất đắc dã. Hối lận giả, ngôn hồ kỳ tiểu tỳ dã. Vô cữu giả, thiện bổ quá dã.
Thị cố, liệt quý tiện giả tồn hồ vị. Tề tiểu đại giả, tồn hồ quái. Biện cát hung giả, tồn hồ từ.
Ưu hối lận giả, tồn hồ giới. Chấn vô cữu giả, tồn hồ hối.
Thị cố, quái hữu tiểu đại, từ hữu hiểm dịch. Từ dã giả, các chỉ kỳ sở chi.
Dịch văn
Thoán nói về tượng. Hào nói về biến hóa.
Cát hung nói về được mất. Hối hận nói về thiếu sót. Gắng bù lỗi thì được vô tội.
Vì thế, giữ vị trí của hào để xếp quý tiện, giữ quẻ để sắp đặt lớn nhỏ.
Lo hối hận, giữ được giới luật, làm phấn chấn sự vô tội, phải giữ sự ăn năn.
Vì thế, quẻ có lớn nhỏ, lời có hung hiểm hay bình an, đều hướng tới điều đó
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
Điểm căn bản của Dịch học là dựa trên khái niệm "tượng" để tìm một lời giải đoán. Cũng giống như phương pháp phân tích khoa học của phương Tây từ dữ liệu đầu vào đưa ra kết luận đầu ra. Cũng là một mối quan hệ nhân quả. Trong một quẻ lại nói về từng hào, là các biến thể khác nhau nhưng có liên quan theo một quy luật nào đó.
Mục tiêu của Dịch là nói về được mất và đưa ra khuyến nghị về cách hành xử. Dịch không đưa ra cách hành xử tuyệt đối. Con người sinh ra ở đời không ai không có lỗi. Gọi là vô tội tức là biết ăn năn mà sửa lỗi mà thôi.
Giới luật chính là biết phân biệt thiện ác ngay cả khi ở ranh giới sai một ly thiện trở thành ác, hoặc ác trở thành thiện. Muốn giữ được giới luật phải biết lo mà hối cải. Vì vậy, quẻ có lớn nhỏ, lời từ đều hướng tới nguy hay an.
Ở đây người học Dịch nảy sinh băn khoăn nghi hoặc, trong một sự kiện có vô vàn "tượng" là sao tóm gọn được về một quẻ. Dường như ở đây Dịch đã giả thiết có tâm lý của người xem quẻ (và người được xem) xen vào. Quẻ có liên hệ tới hai tâm lý đó mà được chọn. Biến của hào là liên tục nên có thể hiểu được phương pháp của Dịch, dựa trên biến hóa tuần tự. Hạ không thể sang Đông nếu không qua Thu. Đang đêm phải qua bình minh mới tới được chính ngọ. Đó là khách quan. Tuy vậy, luận đoán tốt xấu cũng phải dựa trên yếu tố tâm lý và chủ quan mà thôi. Từ tượng vốn đã có yếu tố tâm lý, nên lời giải đoán cũng phụ thuộc tâm lý là lẽ đương nhiên.
Mối quan hệ giữa tâm lý chủ quan và luận đoán gắn liền với các sự kiện khách quan là một điều huyền bí đối với tư duy khoa học và đối với đa số người học ngày nay.
Điều đó là điểm tồn nghi. Không biết nghi ngờ chẳng thà đừng đọc sách. Nhưng phải cởi mở cho dù mâu thuẫn với điều mình đã biết. Dù sao suy đoán của Dịch tuyệt đối chỉ là xác suất, để dần bù đắp dần dần những chỗ sai như nội dung của chương này.
Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016
LÝ THUYẾT CARTAN-EINSTEIN VÀ CUỘC PHIÊU LƯU ĐANG TIẾP DIỄN CỦA HÌNH HỌC.
Đa số chúng ta đều nghĩ đơn giản rằng, hình học phẳng là hình học Euclide, khi không gian không phẳng chỉ việc dùng hình học Riemann có từ thế kỷ 19. Thế là xong. Người biết nhiều hơn có thể nói, hình học Riemman áp dụng cho không thời gian chính là lý thuyết tương đối Einstein. Tia sáng bị bẻ cong, dịch chuyển đỏ, điểm cận nhật của sao Thủy, vũ trụ dãn nở, bức xạ Hawking, lỗ đen, định lý kỳ dị, vướng víu lượng tử, vũ trụ dãn nở, vật chất tối, lạm phát, đối ngẫu,...đều phù hợp với hình học Riemman. Nếu muốn tổng quát hơn có thể xét tới hình học không giao hoán. Mọi việc đã có những cái đầu lớn như Witten lo, muốn biết thì phải đọc hàng tạ sách, mọi sự đều có lời giải trong đó.
Thực ra, không phải vậy. Ở đây tôi sẽ chỉ ra một số vấn đề, chúng ta có thể hiểu, suy nghĩ, thậm chí có thể nghiên cứu mà chưa cần đọc hàng tạ sách, và tạ sách đó cũng chưa biết tới lời giải đáp. Hình học và vật lý vẫn đang tiếp tục phiêu lưu, rẽ dọc rẽ ngang.
Chúng ta đều biết không gian Euclide, bình phương khoảng cách giữa hai điểm bất kỳ có thể tính bằng cách lấy tổng bình phương của các hiệu của mỗi tọa độ. Người ta gọi đây là công thức Descartes, là tổng quát hóa nhiều chiều của công thức Pythagoras. Trong không gian Euclide, có thể có các mặt cong, khoảng cách giữa hai điểm bất kỳ trên các mặt cong không thể dùng công thức Descartes mà phải dùng một đại lượng phụ thuộc vào từng điểm của mặt cong gọi là metric. Metric thay đổi là do tính cong của mặt cong đó quyết định. Ý tưởng bản thân các không gian có thể bị cong đi mà không nhất thiết phải nhúng vào một không gian phẳng nào có số chiều lớn hơn, đã được chín muồi bởi Bolyai-Lobachevsky-Gauss, qua việc xét lại định đề 5 của hình học Euclide. Tuy nhiên, việc xây dựng hình học đầy đủ chỉ được thực hiện bởi Riemann. Riemann xây dựng hình học mang tên ông chỉ dựa trên metric và độ cong, không biết tới khái niệm "liên thông".
Hình thức luận về hình học Riemann của Levi-Civita dựa trên đối tượng hình học cơ bản là "liên thông". Một cách trực giác, "liên thông" đo độ lệch khi chuyển động trên một mặt không phẳng, giống như khi rơi vào ổ gà, chúng ta sẽ bị xóc và nghiêng ngả. "Liên thông" tồn tại, nên không thời gian có độ cong. Độ cong được xác định hoàn toàn nếu ta biết "liên thông". Trong trường hợp liên thông thỏa mãn điều kiện Levi-Civita, nó sẽ được biểu diễn qua metric. Các công thức khá phức tạp và rối rắm, nhưng logic thì giản đơn và trực giác. Vào thời điểm 1915, đó là toàn bộ hình học Riemann mà chúng ta biết. Cũng may, kiến thức vật lý của chúng ta mới chỉ đến đó. Chúng ta chưa biết đến spin, chưa biết các biểu diễn của nhóm Poincaré và nhiều thứ khác. Hình học Riemann chỉ đặc trưng bằng độ cong là đủ để mô tả các hiện tượng vật chất đã biết vào lúc đó.
Năm 1921, Cartan phát hiện ra rằng các đa tạp cong cũng có thể có độ xoắn. Điều mà các nhà toán học phải mất hàng chục năm mới nhận ra, chỉ là một quan sát đơn giản của các bà nội trợ, quen giặt thảm, chăn, nệm. Khi đó liên thông không thỏa mãn điều kiện Levi-Civita. Không chỉ có những tính chất mới, hình học của Cartan còn giải quyết những điểm không phù hợp của hình học Levi-Civita. Cartan mất khá nhiều thời gian để xây dựng hình học Riemann tổng quát theo ngôn ngữ của các nhà vật lý. Các phương trình cấu trúc của ông cuối cùng cũng được viết dưới dạng hiệp biến Lorentz và theo quy ước Einstein. Giữa Cartan và Einstein đã có nhiều trao đổi về hình thức luận này. Mặc dù Einstein không chấp nhận hình học mới với độ xoắn, Cartan cũng đã thông báo cho Einstein biết về các phương trình cấu trúc dưới dạng hiệp biến. Cartan cũng phát hiện ra khi có độ xoắn, vật chất sẽ có moment quay. Tuy nhiên, Cartan đã có một lỗi khiến cho ông không tiếp tục việc hoàn thiện lý thuyết hấp dẫn có xoắn. Ông không chứng minh mà viết định luật bảo toàn năng xung lượng dưới dạng gradient của tensor năng xung lượng bằng 0. Trong các lý thuyết cổ điển và lý thuyết tương đối của Einstein định luật bảo toàn năng xung lượng được mô tả bằng gradient của tensor năng xung lượng triệt tiêu theo định lý Noether. Tuy nhiên, trong hình học có độ xoắn của Cartan, điều đó không còn đúng. Hệ thức này dẫn tới một hạn chế lý thuyết không phù hợp với thực tế. Điều đó làm Cartan đầu hàng, và nghĩ rằng tự nhiên không tuân theo hình học rất đẹp của ông.
Năm 1926, Uhlenbeck tìm ra spin của electron. Tới những năm 1960, Sciema và Kibble đã áp dụng lại hình học của Cartan cho lý thuyết hấp dẫn. Penrose đã nhận thấy khi vật chất có spin, torsion sẽ xuất hiện trong lý thuyết sau một vài biến đổi. Các lý thuyết nhiều chiều, siêu hấp dẫn đều xây dựng trên cơ sở các phương trình cấu trúc của Cartan.Hình học Riemann không giao hoán của tôi cũng xây dựng trên cơ sở hình thức luận Cartan. Các nhà vật lý chất rắn cũng phát hiện ra độ xoắn mô tả biến dạng của tinh thể. Điều quan trọng là độ xoắn sẽ thay đổi vật lý trong một khoảng cách bé hơn bán kính Cartan. Khi đó sẽ xuất hiện một lực Coriolis. Chính nhờ lực này, sẽ tồn tại các nghiệm không có kỳ dị, thay thế các lỗ đen. Ở khoảng cách lớn hơn, lý thuyết Cartan-Einstein cho các kết quả trùng nhau. Ở khoảng cách vũ trụ, lý thuyết Cartan-Einstein sẽ có một số hệ quả khác lý thuyết Einstein.
Một nhà vật lý Việt Nam là Đàm Thanh Sơn cũng đã ứng dụng lý thuyết Cartan-Einstein vào việc giải quyết một số vấn đề trong hiệu ứng Hall lượng tử. Việc xuất hiện độ xoắn sẽ giải quyết một số vướng mắc trong lý thuyết này. Điểm độc đáo và đẹp đẽ tới không ngờ, là lý thuyết hình học Cartan, vốn là xa xỉ ngya cả đối với các nhà lý thuyết năng lượng cao lại đột ngột có một ứng dụng trong các hệ vật rắn năng lượng thấp. Năm 1995, tôi cũng có một ý tưởng táo bạo tương tự khi áp dụng hình học không giao hoán vào hệ Hall lượng tử, nhưng chưa có hiệu ứng hấp dẫn và cũng chỉ dừng ở việc thu được một số lý thuyết đã có chứ chưa đưa được một bức tranh mới và toàn diện như hình học Cartan của Đàm Thanh Sơn.
Đối với tôi, lý thuyết Cartan-Einstein có bậc phi tuyến thấp hơn có thể là con đường dễ dàng hơn dẫn tới hấp dẫn lượng tử. Chẳng hạn, khi liên thông bằng không, độ cong cũng bằng không, độ xoắn vẫn tồn tại. Phương trình chuyển động cho trường hấp dẫn khi đó chính là phương trình Maxwell, lý thuyết hiển nhiên lượng tử hóa được. Một lý thuyết hỗn hợp độ cong và độ xoắn, có thể lượng tử hóa với các hệ quả của nó đang trong quá trình xây dựng.
Một điểm thú vị là độ xoắn làm thay đổi cấu trúc địa phương, từ nhóm Lorentz biến thành nhóm Gallile. Có lẽ đây là chỗ mà các cấu trúc toán học mới như groupoid, algebrapoid có thể vào vật lý và phát triển mạnh.
Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016
Ngã học Dịch [7] Hệ Từ, Thượng Thiên, Chương 2
Sau Chương 1, có thể mạnh dạn đọc cả Chương 2. Đã nắm được mạch từ Chương 1, không cần phân tích từng tiết
聖 人 設 卦 觀 象,繫 辭 焉 而 明 吉 凶。
剛 柔 相 推 而 生 變 化 。
是 故 , 吉 凶 者,失 得 之 象 也。悔 吝 者,懮 虞 之 象 也。
變 化 者 , 進 退 之 象 也 。 剛 柔 者 , 晝 夜 之 象 也 。六 爻 之 動,三 極 之 道 也 。
是 故, 君 子 所 居 而 安 者 , 易 之 序 也 。所 樂 而 玩 者,爻 之 辭 也 。
是 故,君 子 居 則 觀 其 象,而 玩 其 辭;動 則 觀 其 變,而 玩 其 占。是 以自 天 祐 之,吉 無 不 利。
Phiên âm Hán Việt
Thánh nhân thiết quái quan tượng, hệ từ yên nhi minh cát hung.
Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa .
Thị cố, cát hung giả, thất đắc chi tượng dã. Hối lận giả, ưu ngu chi tượng dã.
Biến hóa giả, tiến thối chi tượng dã . Cương nhu giả, trú dạ chi tượng dã . Lục hào chi động, tam cực chi đạo dã .
Thị cố, quân tử sở cư nhi an giả, dịch chi tự dã . Sở lạc nhi ngoạn giả, hào chi từ dã .
Thị cố, quân tử cư tắc quan kỳ tượng, nhi ngoạn kỳ từ; động tắc quan kỳ biến, nhi ngoạn kỳ chiếm. Thị dĩ tự thiên hữu chi, cát vô bất lợi.
Dịch văn
Thánh nhân vạch quẻ, xem tượng, ghép lời mới tỏ được lành dữ.
Cương nhu thúc đẩy nhau sinh biến hóa.
Cho nên, lành dữ thể hiện sự được mất. Hối hận thể hiện sự lo âu.
Biến hóa thể hiện tiến thoái. Cương nhu thể hiện ngày đêm. Sáu hào vận động, chính là đạo của ba ngôi.
Cho nên, người quân tử khi ở nhà thì yên, Dịch tự sắp đặt. Lòng vui mà nghiền ngẫm, hào sẽ thành lời.
Cho nên, người quân tử ở nhà thì xem tượng, nghiền ngẫm lời, động thì xem biến hóa, mà nghiền ngẫm lời đoán, tự khắc có trời phù hộ điều lành không bị bất lợi.
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
Chương này nói về xuất xứ của Dịch như một lẽ tự nhiên. Theo truyền thuyết Phục Hy vạch ra quẻ đã biết hết huyền bí của lẽ Dịch, không cần nói thành lời. Đến các thánh như Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, nói thành lời để truyền lại cho đời, cho đại chúng dễ hiểu.
Lệnh mỗ lấy làm ngờ cái huyền thoại thánh nhân vạch quẻ đã bao hàm hết lẽ Dịch. đời sau chỉ viết lời để truyền ý lại cho đời. Người nguyên thủy, xã hội mông muội, thế giới quan hạn chế, kinh nghiệm mỏng manh, chưa có tư duy trừu tượng. Có lẽ quẻ Dịch ban đầu chỉ là các ký hiệu ghi lại các ý tưởng thô sơ về logic, khi chưa có văn tự và con số.
Trước hết là Âm-Dương, được quan sát ở nhiều hiện tượng khác nhau, vạch thành hai quẻ, sau đó thì xem tượng, xem biết hóa, xem nhiều lần, quy nạp thì mới ghép được lời (một thứ tổng kết).
Hai câu cuối nói tư duy Dịch hình thành thế nào. Người học Dịch ở nhà yên tĩnh, xem các hiện tượng, ngẫm nghĩ cho kỹ, tự nhiên mọi sự sẽ hình thành sắp xếp theo quy luật của Dịch. Ngẫm nghĩ nữa sẽ nói thành lời. Hệ thống này có thể suy luận tạo ra các mệnh đề mới được chứ không đóng. Đó là điều tích cực. Khi thực hành thì xem kỹ biến hóa, nghiền ngẫm các lời đoán, theo đó mà làm thì giống như được trời giúp, không bị bất lợi.
Nhìn chung đến đây có thể thấy, việc sinh ra quẻ, lời đoán và lẽ Dịch cũng là một quá trình vận động tự nhiên, không có gì huyền bí. Bắt đầu là đơn sơ, rồi tự phát triển, ngày càng tinh vi (hy vọng thế. Nhưng rõ ràng là Dịch có hạn chế như đã tổng luận ở Chương 1). Mục tiêu của Dịch cũng thực tiễn và giản đơn, không có tham vọng tư biện hay siêu hình học.
Cho nên, người quân tử khi ở nhà thì yên, Dịch tự sắp đặt. Lòng vui mà nghiền ngẫm, hào sẽ thành lời.
Cho nên, người quân tử ở nhà thì xem tượng, nghiền ngẫm lời, động thì xem biến hóa, mà nghiền ngẫm lời đoán, tự khắc có trời phù hộ điều lành không bị bất lợi.
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương
Chương này nói về xuất xứ của Dịch như một lẽ tự nhiên. Theo truyền thuyết Phục Hy vạch ra quẻ đã biết hết huyền bí của lẽ Dịch, không cần nói thành lời. Đến các thánh như Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử, nói thành lời để truyền lại cho đời, cho đại chúng dễ hiểu.
Lệnh mỗ lấy làm ngờ cái huyền thoại thánh nhân vạch quẻ đã bao hàm hết lẽ Dịch. đời sau chỉ viết lời để truyền ý lại cho đời. Người nguyên thủy, xã hội mông muội, thế giới quan hạn chế, kinh nghiệm mỏng manh, chưa có tư duy trừu tượng. Có lẽ quẻ Dịch ban đầu chỉ là các ký hiệu ghi lại các ý tưởng thô sơ về logic, khi chưa có văn tự và con số.
Trước hết là Âm-Dương, được quan sát ở nhiều hiện tượng khác nhau, vạch thành hai quẻ, sau đó thì xem tượng, xem biết hóa, xem nhiều lần, quy nạp thì mới ghép được lời (một thứ tổng kết).
Hai câu cuối nói tư duy Dịch hình thành thế nào. Người học Dịch ở nhà yên tĩnh, xem các hiện tượng, ngẫm nghĩ cho kỹ, tự nhiên mọi sự sẽ hình thành sắp xếp theo quy luật của Dịch. Ngẫm nghĩ nữa sẽ nói thành lời. Hệ thống này có thể suy luận tạo ra các mệnh đề mới được chứ không đóng. Đó là điều tích cực. Khi thực hành thì xem kỹ biến hóa, nghiền ngẫm các lời đoán, theo đó mà làm thì giống như được trời giúp, không bị bất lợi.
Nhìn chung đến đây có thể thấy, việc sinh ra quẻ, lời đoán và lẽ Dịch cũng là một quá trình vận động tự nhiên, không có gì huyền bí. Bắt đầu là đơn sơ, rồi tự phát triển, ngày càng tinh vi (hy vọng thế. Nhưng rõ ràng là Dịch có hạn chế như đã tổng luận ở Chương 1). Mục tiêu của Dịch cũng thực tiễn và giản đơn, không có tham vọng tư biện hay siêu hình học.
Luận Tam Quốc: Đệ tử như chó lợn
Tào Tháo đem quân đánh Giang Đông, nhìn thấy Tôn Sách tấm tắc khen "Sinh con thì hãy sinh con như Tôn Văn Đài (trỏ Tôn Kiên) chớ sinh con như Lưu Cảnh Thăng (trỏ Lưu Biểu). Cha thì như hổ như báo mà sinh ra toàn chó lợn cả.
Ngày nay, nhìn thấy con cháu một danh gia tư cách không ra gì, cha ông cũng được ví với Lưu Cảnh Thăng là do câu nói đó. Nếu ai bảo cha ông bạn là Lưu Biểu, họ có thể đang khen. Nhưng nếu họ nói là Lưu Cảnh Thăng có thể bạn đang làm ô danh người đi trước.
Ngày nay, nhìn thấy con cháu một danh gia tư cách không ra gì, cha ông cũng được ví với Lưu Cảnh Thăng là do câu nói đó. Nếu ai bảo cha ông bạn là Lưu Biểu, họ có thể đang khen. Nhưng nếu họ nói là Lưu Cảnh Thăng có thể bạn đang làm ô danh người đi trước.
Nước Việt cổ có phải là Việt Thường
Gần đây có một phong trào tìm hiểu về gốc tích của nước Việt thời tiền sử. Cũng là một việc đáng khen và đáng cổ vũ. Tuy nhiên, cái đáng nói là một phong cách nghiên cứu tùy tiện, theo mong muốn và cảm hứng nhiều hơn. Thiết nghĩ việc tìm về cội cần có một thái độ nghiêm cẩn hơn chứ không thể tùy tiện cẩu thả như thế được. Đã đành khoa học là phải cởi mở, mọi việc trước khi kết luận đều bình đẳng. Nhưng "các công trình khoa học" như thế lại lan truyền trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng, dùng những khẳng định chắc như đinh đóng cột, đao to búa lớn, tạo nên những định kiến cho đại chúng, trong tương lai sẽ là những ảo giác xã hội có hại.
Do đó, có lẽ phải bàn kỹ một lần. Thứ nhất, việc nghiên cứu dòng di cư của các nhóm người cổ dựa trên các nghiên cứu về gien, cho thấy có sự di chuyển của các nhóm người từ phía nam lên phía Bắc không có nghĩa là dân Trung Quốc phía Nam sông Dương tử đều là người Việt cổ. Thực ra, khi đó chưa có khái niệm người Việt. Nhóm người di cư từ phía Tây qua (Giả thiết là đã qua vùng Lưỡng Hà, Ấn Độ cũng chỉ là giả thuyết thôi, chứ chưa phải là chân lý khoa học), đã mắc lại vùng Himalaya rất nhiều thiên niên kỳ trước khi tràn xuống Miến Điện, Vân Nam. Từ đó có các nhánh di cư lên phía bắc và có nhóm tràn xuống Đông Nam Á. Phải xác định rõ, việc nghiên cứu này cũng có những hạn chế về quy mô thống kê và kết luận cũng không thể như đinh đóng cột. Việc kiến giải các kết quả này cũng cần phải có một nghiên cứu kỹ lưỡng về cơ sở của phương pháp ADN để thấy được ý nghĩa cũng như phạm vi của nó để khỏi suy luận quá xa và tùy tiện như một số tác giả đã làm.
Điểm thứ hai, khái niệm người Việt cổ cũng cần bàn. Nhiều người Việt Nam đọc sách và cho rằng Việt là chỉ Việt Nam. Điều đó không đúng. Người Thái, người Miêu, đều là Việt. Gần đây có một số tác giả phương Tây đã giải mã Việt nữ ca trong sách Thiết uyển, cho thấy đó là tiếng Thái. Các nhà "nghiên cứu" tay ngang Việt Nam rất ngại nói tới chuyện này. Điều đáng nói hơn, chúng ta cần làm rõ các khái niệm khi dùng. Tránh việc dùng các khái niệm mờ để rút ra các kết luận sau đó lại gán cho chúng các khái niệm tường minh. Thực ra đây là một phép ngụy biện giả khoa học sơ đẳng. Trước tiên chúng ta phải nói rõ với nhau thế nào là người Việt cổ và mối liên quan của họ với người Việt Nam hiện đại, với Hùng Vương hoặc với các tộc người sống tại đồng bằng sông Hồng vào thời Đường trở về sau.
Điểm thứ ba cũng là điểm quái lạ nhất là cách đọc sách tùy tiện. Căn cứ vào sách của Trung Quốc, sau đó lại dùng để vặn lại sách Trung Quốc hoàn toàn không phân tích mà dựa trên một số kết luận theo mong muốn có sẵn. Ví dụ điển hình là bài gần đây [1], nói chung chung mơ hồ "cổ sử Trung Quốc" nói có nước Việt Thường đến dâng rùa cho vua Nghiêu. Thực ra chằng có sử nào của Trung Quốc ghi điều đó mà chính bộ sử của Việt Nam là ĐVSKTT mới đặt ra giả thuyết Việt Thường là nước ta. Việc dâng lịch rùa được ghi trong một sách cổ nhất là Thượng Truyện được Phục Thắng soạn vào đầu đời Hán, có nghĩa là khoảng 3000 năm sau sự kiện nước Việt Thường dâng rùa cho vua Nghiêu. Sau Thượng Truyện phải đến đời Tống, cách đây chưa tới 1000 năm mới có sách Thông Chí của Trịnh Tiều ghi lại việc này. Nếu người viết không "dấu nhẹm" các chi tiết như thế để cho người đọc quyết định xem "cứ liệu lịch sử" đó khả tín như thế nào thì có lẽ không có gì đáng nói. Sau đó có một số sách soạn vào khoảng thế kỷ 10 hoặc muộn hơn võ đoán không có căn cứ về Việt Thường là Lâm Ấp hoặc vùng Hà Tĩnh ngày nay. Đến khi soạn ĐVSKTT, các sử gia Việt Nam tùy tiện đặt Việt Thường là tên một bộ ở vùng Cửu Chân, với cứ liệu là các sách Trung Quốc nói trên, chứ hoàn toàn không có một nguồn độc lập. Một điểm có cơ sở thực tiễn là thời Hán có đặt địa danh Việt Thường tại vùng Cửu Chân nhưng gần như chắc chắn không phải theo tên một quốc gia cổ đã tồn tại từ trước ở đó.
Đặc biệt các học giả Việt nam từ Đào Duy Anh và một số nhà nghiên cứu thế hệ sau cũng đã khẳng định Việt Thường không phải là địa danh trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có thể đúng do đồng bằng sông Hồng lúc đó mới hình thành, không thể có một quốc gia với mật độ dân cư đáng kể. Một số người khẳng định Việt Thường ở Trung Quốc đại thể dựa trên lý luận là với khoảng cách như vậy mới có thể giao thương với Trung Quốc cổ [2].
Các nghiên cứu mới nhất của các tác giả phương Tây, ngoài Trung Quốc cũng như của Trung Quốc cũng cho thấy Việt Thường là một từ phiếm chỉ một quốc gia ở phía Nam. Như vậy, các nước Việt Thường dâng chim trĩ trắng vào thời Chu và dâng rùa vào thời Nghiêu có thể không phải là một nước. Các văn tự về sau chỉ Việt Thường được định hình là chỉ một quốc gia có địa vực từ bắc Miến Điện tới đông bắc Ấn Độ là Assam. Các sách Hậu Hán Thư-thiên Tây Vực ký và Tân Đường Thư- thiên Địa Lý Chí, cũng là các sách cổ Trung Quốc thậm chí xác định rõ Việt Thường nằm vào khoảng Bangladesh, Miến Điện cho đến Thượng Lào ngày nay.
[2] http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/viet-thuong-thi-o-dau.html
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)