Tôi thường nghĩ âm nhạc kích thích thính giác, hội hoạ điêu khắc kích thích thị giác, tạo nên mỹ cảm, sự hứng khởi, thăng hoa, đều được coi là nghệ thuật. Tại sao tác động lên các giác quan khác lại không được tôn vinh như vậy.
Thứ Ba, 18 tháng 10, 2022
Tản mạn về nghệ thuật và ẩm thực
Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022
Dân chủ đa nghĩa
1. THEO ĐA SỐ CÓ PHẢI LÀ DÂN CHỦ
Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2022
Lịch sử và căn tính dân tộc,
1. Chúng ta thường có một niềm tin ngây thơ rằng nếu cố gắng tìm chân lý, thoát khỏi mọi định kiến tôn giáo, ý thức hệ, lịch sử sẽ trở thành một khoa học khách quan.
Căn tính và bi kịch của một dân tộc
1. Trong "Bi kịch của Trung Âu", Milan Kundera cho rằng bi kịch của Trung Âu là việc đi tìm căn tính Âu châu chống lại thể chế toàn trị phương Đông. Các dân tộc nhỏ ở Trung Âu phải vật lộn để xác lập căn tính đó. Ông cho rằng đế chế Áo-Hung đã từng là một giải pháp khả dĩ và bền vững để hình thành một quốc gia đa sắc tộc, mà mỗi dân tộc nhỏ sẽ đóng góp bản sắc vào quốc gia lớn mà không làm mất bản sắc của mình. Ông đúng khi cho rằng Trung Âu đã đóng góp những giá trị tốt đẹp nhất và to lớn cho Âu Châu.
Thứ Hai, 16 tháng 5, 2022
Các trường phái và khái niệm về thông linh
Phi Lộ
Trước tiên phải phi lộ, để học trò, đồng nghiệp, bạn bè và người thân khỏi hoảng sợ nghĩ rằng tôi bắt đầu lẩn thẩn. Tôi bắt đầu nghiên cứu vật lý từ năm 1976, năm thứ 3 đại học, đến nay được 41 năm. Bắt đầu làm về CNTT năm 1995, đến nay là 22 năm. Có lẽ bắt đầu tìm hiểu về ý thức cũng là đủ kinh nghiệm về thế giới vật lý, thế giới thông tin và cũng có thể khai thác ích lợi của thế giới ý thức đối với vật lý và tin học, là những lĩnh vực mà việc hiểu về ý thức sẽ tạo ra đột biến.Từ ngữ
Thông linh là chữ tôi đặt ra hàm ý việc tương thông giữa các trạng thái tinh thần, hoặc của trạng thái tinh thần và thế giới vật chất. Theo tôi, để đặt vấn đề nghiên cứu ý thức thì phải chứng minh được ý thức tồn tại độc lập với vật chất. Khả thi nhất là chứng minh được có thông linh. Chỉ cần chỉ ra, có thể tạo ra thông tin khả tín, không cần đến vật chất, chúng ta có thể xác quyết được rằng có ý thức tồn tại độc lập với vật chất.Các trường phái thông linh
Thứ Ba, 12 tháng 4, 2022
Chân Thiện Mỹ và quy tắc ứng xử
Chân Thiện Mỹ là nội dung chính của Triết Học, thường bị quy giản về Đạo Đức học, một phần nhỏ của Triết Học. Trong cuộc sống, chúng ta còn có cách hiểu giản lược hơn nữa: Chân là cái Đúng; Thiện là cái Tốt; Mỹ là cái Đẹp. Những khái niệm này đều tương đối, chủ quan. Ngày nay chúng đã trở nên đa dạng và phải linh hoạt trong một xã hội đa nguyên, đa văn hoá, hội nhập và nhân bản.
Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2022
Thiên văn Trung Quốc
Thứ Ba, 22 tháng 3, 2022
Đọc Thơ thế nào cho bổ ích
Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022
Tính phi nhân của tư tưởng Á Đông
Nhiều người cho rằng tư tưởng Á Đông mạnh về toàn cục nên kém về phân tích so với tư tưởng Phương Tây. Cao Xuân Huy cho rằng sự khác biệt là ở chủ toàn-chủ biệt. Phương Đông nhìn vấn đề theo hướng toàn cục, Phương Tây dựa trên phân tích thành từng mảnh nhỏ để lĩnh hội các mảnh dễ hơn "chia để chinh phục" (divide and conquest).
Nhiều người khác lại cho rằng tư tưởng Á Đông trọng ở tâm linh, tư tưởng Phương Tây trọng ở vật chất. Chúng ta sợ bất cứ loại ý thức siêu nhiên, phi vật chất nào, từ bình vôi đến ma xó. Phương Tây chỉ lo thiếu tiền, vì thế có sốt vàng, sốt thuộc địa, phát triển hạm đội, máy móc để kiếm tiền, trong khi ta nhàn tản trồng rau, nói chuyện đạo đức. Người khác lại cho Á Đông là duy tâm, Phương Tây là duy vật, Á Đông là chủ quan, Phương Tây là khách quan, Phương Đông là lý trí, Phương Tây là cảm giác, vân vân và vân vân.
Chủ Nhật, 13 tháng 2, 2022
VŨ TRỤ CAM
Có người ví quyền năng của Einstein là quyền năng của Satan, vì nếu Newton làm mọi sự trở nên sáng sủa minh bạch thì Einstein làm mọi sự trở nên tối tăm và mơ hồ. Trước hết là việc trong lỗ đen và ở thời điểm Big Bang không có không gian và thời gian gây ra rất nhiều khó chịu và sinh ra các câu hỏi: Chui vào lỗ đen rồi đi đâu? Trước Big Bang là cái gì? Nếu vũ trụ là một điểm thì xung quanh đó là cái gì? Phải có cái gì đó chứa một điểm hay phải có cái gì gây ra Big Bang chứ?
NGUYỄN VĂN HIỆU VÀ TÔI, - Nguyễn Ái Việt (6)
Con người Nguyễn Văn Hiệu
Nguyễn Văn Hiệu là một
nhà khoa học lớn, nhưng trước hết là một con người. Ở vị trí của mình, ông phải
chịu sức ép quá lớn từ hoàn cảnh, vốn không mấy thuận lợi cho việc phát triển
khoa học. Tôi nghĩ, ông thừa thông minh để hiểu, các nhà khoa học được tôn vinh
đôi khi chỉ để trang trí hoặc chỉ như một gia vị.
Nhiều người nói điểm mạnh và cũng là điểm
yếu của Nguyễn Văn Hiệu là tính độc đoán và định kiến. Trong nhiều hoàn cảnh,
tính quyết đoán của Nguyễn Văn Hiệu là ưu điểm vượt trội của ông trong một nền
hành chính thiếu quyết đoán, mù mờ, thủ tục nhiêu khê kéo dài, không ai dám quyết,
dám làm, dám chịu trách nhiệm. Ông kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình. Dù
không phải lúc nào ông cũng đúng, nhưng sau này, có kinh nghiệm quản lý, tôi mới
thấy điều đó là cần thiết. Làm được 6-7 việc và sai 2-3, nếu không vi phạm luật
chắc chắn là hơn nhưng người chỉ làm 1-2 việc đúng. Tuy nhiên cũng có khi ông
khá độc đoán và định kiến kéo dài, không công bằng với một số người. Đó là điểm
yếu của ông, nhưng cũng là tất yếu có thể hiểu được.
Một
số người khác nói rằng điểm yếu của Nguyễn Văn Hiệu là khoa trương, nói nhiều
việc nhưng không thực hiện được. Sự thực thì Nguyễn Văn Hiệu rất nhiệt tình
truyền cảm hứng cho mọi người. Mỗi khi ông đi công tác nước ngoài về, có được
những ý tưởng mới, ông lại mời các cán bộ trong Viện lại và say sưa nói về viễn
cảnh phát triển. Có người đã nghe ông nói hàng chục lần, trải qua hàng chục
năm, nghe ông nói vẫn thấy nhiệt huyết sôi sục, muốn bắt tay vào việc. Đây
chính là biệt tài của ông, khiến ông có sức thu hút, có khả năng tập hợp người,
làm nhiều việc thành công. Tất nhiên, ông rất linh hoạt và luôn có ý tưởng mới,
vì vậy ông như một người rắc ý tưởng trên đường đi, không phải luôn luôn có thời
gian và nguồn lực để thực hiện. Nếu ai nắm bắt và sử dụng được, mọi ý tưởng của
ông đều hàm chứa những chân trời phát triển mới. Vì thế tôi cho đây là một tính
cách hồn hậu, nhiệt tình của Nguyễn Văn Hiệu.
Có
lẽ điểm yếu thực sự của ông là một tính cách tưởng chừng vô hại, và cũng là
tính cách chung của nhiều nhà khoa học Việt Nam là cảm tính và cả tin. Chẳng hạn,
tôi đã tận mắt thấy Nguyễn Hoàng Phương làm việc với “các nhà ngoại cảm”, ghi tất
cả những gì họ nói coi là nguồn thông tin tin cậy mà không kiểm tra. Ông ngây
thơ cho rằng ai cũng trong sáng, trọng danh dự và yêu chân lý như mình, không hề
nghĩ tới những động cơ xấu. Thành thử các nhà khoa học, đáng ra rất duy lý lại
dùng cảm tính để suy diễn và rất hay bị lừa phỉnh. Nguyễn Văn Hiệu cũng có những
niềm tin cảm tính như vậy. Là nhà quản lý, có danh vọng, nhiều người vây quanh
tâng bốc, lại bận rộn lọc thông tin không kỹ càng, rất dễ sai lầm. Bên cạnh đó,
nhà quản lý thường cô đơn, vì những nhà khoa học thực sự, có bản lãnh thường
không thích hòa mình vào đám đông xun xoe đang vây quanh ông. Tôi cảm nhận được
sự cô đơn của Nguyễn Văn Hiệu và nhiều khi thấy thương ông vô cùng.
GS Cao Long Vân, một nhà vật lý lý thuyết
xuất sắc tại Ba Lan, tỏ ý tiếc cho việc Nguyễn Văn Hiệu không phát huy được mặt
mạnh nhất của ông là lý thuyết trường và hạt cơ bản tại Việt Nam. Ông không có
truyền nhân trực tiếp nào có tầm cỡ như ông hoặc ít ra tương đương với các học
trò trong vật lý chất rắn. Trong những học trò đời cuối cùng của ông chỉ có Hà
Đại Phước còn làm về lý thuyết hạt cơ bản ở Mỹ, nhưng không phải theo hướng của
Nguyễn Văn Hiệu đã hướng dẫn. Tại Mỹ, Hà Đại Phước đã đi theo hướng nghiên cứu
của tôi làm thời sinh viên là tính mô ment từ của các hạt baryon và có những kết
quả xuất sắc. Nhà khoa học sẽ được sống mãi trong công việc tiếp nối của các học
trò, Nguyễn Văn Hiệu để những kiến thức về lý thuyết trường và hạt sơ cấp của
ông uổng phí là một điều đáng tiếc, không phải đối với riêng ông mà còn đối với
ngành Vật lý Việt Nam. Chúng ta có quyền đặt câu hỏi vì sao khi các học trò xuất
sắc nhất của ông như Nguyễn Ái Việt A, Nguyễn Toàn Thắng, Nguyễn Bá Ân, đã trưởng
thành, nghĩa vụ của Nguyễn Văn Hiệu đối với vật lý chất rắn đã hoàn tất, ông
không truyền thụ nốt cho họ những “tuyệt chiêu” về lý thuyết trường và hạt cơ bản
của ông. Một người thầy lớn phải luôn luôn mong muốn có những học trò được như
mình, thậm chí hơn mình, như Nguyễn Hoàng Phương đã từng hết lòng với Nguyễn
Văn Hiệu.
Theo
tôi, tình yêu của Nguyễn Văn Hiệu đối với Vật lý luôn cháy bỏng, nhưng ông luôn
hướng tới những kết quả cụ thể, không để ý nhiều tới những vẻ đẹp mê hồn của
nó. Có một điều gì đó, tôi thấy thiếu ở Nguyễn Văn Hiệu là sự lãng mạn, tôn thờ
cái đẹp thủy chung trong Vật lý ở những người như Nguyễn Hoàng Phương, Cao Chi.
Có lẽ ông quá bận rộn không có thời gian để thưởng thức những vẻ đẹp mà đáng ra
ông có quyền được hưởng. Đôi khi ông bỏ qua những tài năng trẻ không theo những
hướng nghiên cứu mà ông đang quan tâm. Trường hợp mà tôi tiếc nhất là Trần Trí
Triết, là nghiên cứu viên của phòng Vật lý lý thuyết trong những năm 1979-1980.
Anh có những tư tưởng rất táo bạo, kiến thức rất sâu, nhưng không được động
viên và tạo điều kiện thích đáng, cuối cùng phải bỏ nghề.
Điều tôi tiếc nhất cho Nguyễn Văn Hiệu là
ông không giữ được quan hệ tốt đẹp với một số đồng nghiệp, trong đó có những
người thực sự xuất sắc. Nếu ông có thể kết hợp với họ, sử dụng được năng lực của
họ, với cả một tập thể lớn, nền vật lý của chúng ta có thể sẽ tiến xa hơn nữa.
Nước nổi, thuyền nổi, người cầm lái sẽ càng nổi. Người xưa có nói “dụng nhân
như dụng mộc”, dùng cây không chỉ dùng thân, sử dụng được cả lá, cành và rễ mới
là thợ cả giỏi. Đôi khi toàn bộ giá trị
của cây lại nằm trong phần rễ xấu xí ẩn sâu trong lòng đất.
Nhắc đến Nguyễn Văn Hiệu, không nhắc đến
Nguyễn Hoàng Phương là một thiếu sót lớn, không công bằng, có thể là thiếu
trung thực. Nếu Nguyễn Văn Hiệu không gặp được Logunov, Nguyễn Văn Hiệu có thể
không có bằng sáng chế về tán xạ phi đàn tính sâu, ông vẫn có thể có những công
trình khác với Pontercovo, Markov, Ogievetsky ở phòng thí nghiệm neutrino. Việt
Nam vẫn có thể có nhà quản lý Nguyễn Văn Hiệu, vì thời thế đã gọi tên ông. Thậm
chí ông có thể được nhắc tên nhiều hơn trên về khoa học. Nhưng nếu không có, sự
giúp đỡ chí tình, vô tư và tầm nhìn của một người thầy lớn, những hướng dẫn ban
đầu của Nguyễn Hoàng Phương, khó có thể có một Nguyễn Văn Hiệu như ngày nay
chúng ta biết.
Có thể nếu được làm việc dưới quyền của
Nguyễn Đình Tứ, tôi sẽ có cơ hội học hỏi nhiều hơn về tư duy quản lý, cảm thấy
sự ấm áp hơn về tình người. Nếu được làm khoa học với Trần Hữu Phát, có thể tôi
sẽ có được nhiều giờ thảo luận sâu hơn về vật lý thực sự. Có thể nếu được sinh
ra sớm hơn, tôi có thể sẽ được làm việc với Nguyễn Hoàng Phương để tiếp thu những
ý tưởng bay bổng. Nhưng nếu được chọn lại từ đầu, có lẽ tôi vẫn sẽ chọn về Viện
Vật lý, cho dù chỉ được chiêm ngưỡng, học hỏi Nguyễn Văn Hiệu từ xa và cuối
cùng chỉ nhận được từ ông sự cảm thông muộn màng. Đối với con đường khoa học và
đến với những hoài bão tuổi trẻ, một lời tri kỷ từ một đồng nghiệp cũng đã là
may mắn đủ cho thiên thu không dễ dầu gì có được. Có lẽ tôi cũng cô đơn như
ông, mặc dù chưa bao giờ muốn làm một người khổng lồ, với đôi đầu gối mỏi mòn
dưới sức nặng ngàn cân, lê từng bước nặng nề hành hương về một phương trời vô định.
NGUYỄN VĂN HIỆU VÀ TÔI, - Nguyễn Ái Việt (5)
Phần 4c
Những
kỷ niệm cuối cùng
Từ năm 1991, tôi đi Mỹ, nghiên cứu tại Đại
học Syracuse, phát triển lý thuyết Kaluza-Klein với chiều gián đoạn, thống nhất
tương tác hấp dẫn với các tương tác điện từ, mạnh và yếu. Đây là một hướng
nghiên cứu hẹp, công cụ toán học trừu tượng và khó. Hồi bấy giờ, Syracuse là
trung tâm mạnh nhất thế giới về lý thuyết hấp dẫn, quy tụ được nhiều nhà vật lý
cự phách như A.Ashtekhar, R.Penrose (giải thưởng Nobel 2021), L.Smolin,
C.Rovelli,… Do đó tôi quyết định gác những đề tài đang còn dở dang chuyển sang
làm hấp dẫn để có thể tận dụng cơ hội hiếm có này. Cũng may, khi đó TS.Nguyễn Hồng
Chương, một chuyên gia về vũ trụ học cũng đang làm việc tại Syracuse. Mỗi buổi
sáng vào trường, Nguyễn Hồng Chương lại nói cho tôi nghe một chút về bức tranh
toàn cảnh của lĩnh vực này, điều mà tôi rất thiếu khi bước vào lý thuyết trường.
Đồng thời tôi cũng theo dõi công việc của nhóm Ashtekhar. Chính nhờ vậy, tôi đã
nhanh chóng nắm được những vấn đề lớn trong lĩnh vực này và định ra được cho
mình một hướng đi sau 6 tháng khi tới Syracuse. Nhờ vậy, tôi đã xây dựng thành
công lý thuyết Einstein dựa trên hình học không giao hoán, vượt quá được những
khó khăn mà nhóm của J.Frohlich đã vấp phải và chỉ ra lý thuyết này chính là lý
thuyết Kaluza Klein với chiều phụ gián đoạn. Về mặt hiện tượng luận, cũng có những
thành công nhất định, khi ứng dụng lý thuyết này tiên đoán khối lượng của quark
top, hạt Higgs và mô tả hệ Hall lượng tử hai lớp. Trước khi mất một năm nhà vật
lý gốc Ấn Độ, giải thưởng Nobel 1983, S.Chandrasekhar có tới Syracuse gặp tôi
sau khi đọc các bài báo này và khuyên tôi “Nếu tôi là anh và nếu tôi còn trẻ,
cho đến cuối đời, tôi sẽ chỉ làm đề tài này.” Đối với tôi đó là thành tích cao
nhất về khoa học mà tôi có được.
Năm 1995, tôi chuẩn bị cho việc về nước,
nên bắt đầu nghiên cứu thêm về CNTT, khi đó bắt đầu phát triển rất mạnh tại Mỹ
sau sự ra đời của công nghệ Web. Khi đó tôi nghĩ rằng CNTT sẽ phát triển ở Việt
Nam, tôi sẽ có thêm một nghề tay trái để tiếp tục làm Vật lý lý thuyết. Tuy
nhiên, những cơ duyên mới được mở ra và do nhu cầu thực tế, tôi trở thành
chuyên gia CNTT, Vật lý lý thuyết chỉ còn là nghề tay trái. Trong lĩnh vực mới
này, tôi có cơ hội đóng góp tốt hơn cho xã hội. Do đó tôi phần nào hình dung được
việc Nguyễn Văn Hiệu chuyển hướng sang Vật lý bán dẫn, rồi công nghệ nano. Có lẽ
ông cũng loay hoay tìm hướng hoạt động có tác động xã hội trực tiếp và mạnh
hơn. Về phương diện này, có lẽ tôi đã may mắn hơn ông.
Năm 2003, tình cờ Nguyễn Văn Hiệu gặp vợ
tôi và nói “Chú vẫn thường xuyên đọc tất cả công trình của Việt, và thấy rất
thích cách nghĩ táo bạo của Việt. Chú thấy Việt có nhiều điểm giống chú. Bây giờ
chú thấy tiếc đã không hướng dẫn trực tiếp và tạo điều kiện làm việc tốt cho Việt.
Việt đã phải làm việc trong điều kiện rất khó khăn mà vẫn tìm được cho mình được
con đường riêng là một điều đáng phục.” Lúc đó tôi mới biết, ông chưa hề “bỏ
rơi” tôi về tinh thần. Điều đó đã giải phóng cho tôi phần nào tâm sự, và làm
tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Quả thật tôi chỉ muốn có một sự thừa nhận công bằng chứ
không hề muốn có sự nâng đỡ đặc biệt của bất cứ ai. Lần cuối cùng, tôi gặp ông
tại một Hội thảo về Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam. Chúng tôi phụ trách công việc ở
hai Ban khác nhau, ông ở Ban Vật lý, tôi ở Ban Công nghệ Thông tin. Ông đăng
đàn, kể lể công lao của ngành Vật lý khiến tôi bùi ngùi xót xa. Ngành Vật lý là
một ngành khoa học lâu đời nhất của nền khoa học Việt Nam, một thời tập trung
nhiều nhân tài xuất chúng nhất, đáng lẽ phải là anh cả, dẫn đầu các ngành khoa
học mà chỉ yêu cầu được coi ngang hàng hay gần bằng với các ngành khoa học, công nghệ khác mà thôi ư? Ai phải chịu trách nhiệm về điều đó? Tại
hội thảo đó, tôi đã đề xuất một phương pháp ứng dụng CNTT thông tin để soạn
Bách Khoa Toàn Thư nhanh chóng và đảm bảo chất lượng. Sau Hội thảo, ông cùng
Nguyễn Đại Hưng đến gặp tôi nói “Chú ủng hộ phương pháp của Việt. Về CNTT, bây
giờ chú phải học cháu chứ. Chạy dạy chú cách để chú làm Bách Khoa Toàn thư cho
ngành Vật lý.”