Đối xứng unita của các hạt sơ cấp
Điểm đặc biệt trong thành công của Nguyễn
Văn Hiệu ở chỗ ông đã có một tầm nhìn xa và sâu sắc về bức tranh toàn cảnh Vật
lý. Đó là tư duy của một nhà lãnh đạo khoa học tương lai. Trong khi làm luận án
TS, ông đã nghiên cứu song song thêm các đề tài khác về tương tác mạnh và đã có
những kết quả quan trọng bên ngoài luận án TS. Chúng ta có thể thấy nhà khoa học
trẻ Nguyễn Văn Hiệu khao khát kiến thức và có năng lực làm việc lớn như thế
nào. Ở đây chúng ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng của một người khổng lồ, vác
lên vai tất cả những kiến thức đồ sộ mà anh có thể thấy trên đường, để đem về
xây dựng cho nền vật lý tương lai của quê hương. Ông như muốn học cả cho những
người đang ở quê nhà, đang đợi ông để cùng xây dựng nền vật lý tương lai cho Việt
Nam. Nếu chỉ để học cho cá nhân mình,
hay vì bằng cấp, Nguyễn Văn Hiệu hoàn toàn không cần làm như vậy. Đến Dubna năm 22 tuổi, 8 năm sau ông đã được phong
học hàm GS Liên Xô, phụ trách một nhóm nghiên cứu lớn, có nhiều học trò giỏi.
Cùng với GS. Ya.A.Smorodinsky, Nguyễn Văn Hiệu
đã nghiên cứu đối xứng unita của các hạt cơ bản. Đây là một hướng nghiên cứu rất
mới, do nhà vật lý Mỹ M.Gell Mann đề xuất. Đối xứng unita là một quy luật tuần
hoàn, phản ánh các thuộc tính lặp đi lặp lại của rất nhiều hạt cơ bản được phát
hiện trong các máy gia tốc có năng lượng rất cao. Các thuộc tính tuần hoàn này
tương tự như các thuộc tính của các nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn
Mendeleev. Công cụ toán học để phân loại và sắp xếp các hạt cơ bản là lý thuyết
biểu diễn nhóm, một lý thuyết rất khó và trừu tượng vào lúc bấy giờ. Bằng công
cụ toán học mới này, người ta thấy có một vị trí trong bảng tuần hoàn mới đó
còn thiếu. Gell Mann đã tính toán khối lượng của hạt đó mà được ông đặt tên là
Omega. Năm 1964, người ta đã phát hiện hạt Omega, bằng thực nghiệm. Đó là một
thành công rực rỡ của nhóm đối xứng unita, mà các nhà viết lịch sử khoa học thường
so sánh với việc phát hiện ra hành tinh Neptun. Nhóm nghiên cứu của Smorodinsky
và Nguyễn Văn Hiệu đã nghiên cứu về nhóm đối xứng unita rất sớm. Smorodinsky, khi
đó đã là trưởng phòng vật lý lý thuyết tại Dubna, vốn là học trò của nhà vật lý
Liên Xô, giải thưởng Nobel, L.D.Landau lừng danh. Ông là một trong số ít những
người thành công trong kỳ sát hạch khó khăn của Landau dành cho các nhà vật lý
trẻ. Trong nhóm nghiên cứu của Smorodinsky, Nguyễn Văn Hiệu là người đi tiên
phong trong việc nghiên cứu các công cụ toán học của lý thuyết biểu diễn nhóm.
Ông tính toán cẩn thận và giảng lại cho các đồng nghiệp. Các bài giảng này sau
này được soạn lại thành sách, một sách giáo khoa mẫu mực về sự sáng sủa về dễ
hiểu. Cuốn sách này được Viện sĩ Bogoliubov viết lời nói đầu. Nguyễn Văn Hiệu
cũng là một trong những người đầu tiên đề xuất sử dụng nhóm SL(6,C) để biểu diễn
hạt cơ bản. Đây là nhóm đối xứng vừa chứa đối xứng unita SU(6) mô tả đối xứng gần
đúng của 6 hạt quark mà sau này người ta sẽ tìm ra và nhóm đối xứng tương đối
tính Lorentz.
Nhiều
năm sau, hướng nghiên cứu về đối xứng unita và các đối xứng mở rộng được tiếp tục
ở nhóm nghiên cứu tại Viện Vật lý của Đào Vọng Đức và Nguyễn Thị Hồng, và nhóm
nghiên cứu tại Khoa Vật lý, Đại học Tổng hợp TPHCM của Nguyễn Ngọc Giao và
Dương Văn Phi. Cá nhân tôi cũng là một chuyên gia trưởng thành từ hướng nghiên
cứu này. Có thể nói, ảnh hưởng của Nguyễn Văn Hiệu đã lan tỏa trong giới Vật lý
Việt Nam trong nhiều năm sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét