Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

Huy Phương - Đêm cuối năm của nhà thơ họ Đỗ (truyện ngắn)




Mến tặng những bạn đã từng biết những lần dũng cảm “lại bắt đầu” 

Lần này nữa không biết là lần thứ bao nhiêu - nhưng chắc là lần cuối cùng trong một năm - người thi sĩ già họ Đỗ lại ngồi vào bàn viết. Chiếc đèn trên bàn viết, cũng như mọi ngày, vẫn cúi cái lưng kiên nhẫn soi xuống tờ giấy trắng trước mặt gã. Nhưng hôm nay sao gã thấy tờ giấy rộng mênh mông một cách khác thường, và ánh đèn trăm nến quen thuộc ấy cũng lạnh lẽo một cách khác thường. Tất cả cái thứ mênh mông lạnh lùng ấy làm cho gã như ngợp đi, chơi vơi trong một cảm giác bàng hoàng, mỏi mệt… 

Minh hoạ của Bùi Xuân Phái
Nhưng gã nhất định chấm ngòi bút vào lọ mực viết mấy chữ đầu tiên lên trang giấy. Vì gã biết nếu đêm nay gã không nhất định viết thì gã không bao giờ còn có cái can đảm lại bắt đầu nữa. Nhưng nắn nót viết xong cái đầu đề lên trang giấy, gã lại thấy bực bội, hối hận như vừa làm xong một việc hấp tấp, liều lĩnh. Ôi! Một năm nay biết bao nhiêu lần gã đã từng viết những cái đầu đề trịnh trọng như vậy lên trang giấy! Để rồi lại xoá đi, xoá đi rồi lại viết, mà những bài thơ gã dự định làm vẫn mãi mãi chỉ là… những cái đầu đề dự định! 

Gã đặt bút xuống bàn và như lệ thường, chống tay lên thái dương mắt lim dim nhìn ra khung cửa sổ. Ngày xưa những lúc thấy khó viết, gã vẫn thường có cái thói quen (đã trở thành kinh nghiệm) ngồi đợi cảm hứng như vậy. 

Nhưng lần này, ngồi lim dim mắt nhìn qua khung cửa sổ, gã chỉ thấy tâm hồn mình càng lênh bênh, trăm mối dọc ngang, truớc đêm tối mênh mông. Trong ánh đèn chiếu hắt qua cửa sổ, mưa phùn đổ xuống, trông như một lớp sương bạc bồng bềnh. Một thứ buồn khó tả như làn mưa bụi nhè nhẹ thấm vào lòng nhà thơ họ Đỗ và gã bất giác cất tiếng thở dài. 

Mưa phùn đã rây bụi, là một năm sắp qua. Thế là đời gã sắp nặng thêm một tuổi. Gã nhớ những thuở còn trẻ tuổi, mỗi mùa xuân đến là mỗi lần làm cho gã như cảm thấy mình càng khoẻ hơn, khối óc chắc hơn và ngòi bút cũng càng sắc thêm. Gã chờ mùa xuân như một kẻ si tình chờ đón người yêu. Vì với gã, mùa xuân có nghĩa là một sự bắt đầu, có nghĩa là một năm sắp đến, với bao nhiêu tác phẩm mà gã sẽ ném tung vào đời như những đàn chim mỗi năm qua, lại càng vững cánh chắc lông… 

Nhưng trong cái đêm cuối năm hôm nay, sao gã lại thấy ngậm ngùi. Mùa xuân của đất trời đang đến, sao gã chỉ có cái cảm giác xót xa như bao nhiêu những mầm non tươi đẹp nhất trong lòng gã đang theo những cái đêm cuối cùng của một năm từ biệt gã mà ra đi. Cái cảm giác ấy, thực ra chỉ hơn một năm nay gã mới dần dần cảm thấy, một ngày một thấm thía hơn. Không, gã biết chắc rằng sức sống trong người gã không phải đã hoàn toàn khô cạn. Gã vẫn thường tự nhắc với mình câu nói của Ê-ren-bua: 

“Con người mỗi lúc mỗi già, tình cảm và sức khoẻ suy nhược đi… nhưng riêng nhà văn, nhà văn không hề biết tuổi già…”. Và mấy năm trời nay gã tin như thế. Một người đã từng vào sinh ra tử hơn hai mươi năm như gã trong nghề thơ, dễ đâu mỗi một lúc mà buông cán bút đầu hàng trước cuộc đời! 

Nhưng hôm nay, trong cái đêm cuối năm này, sao câu nói của Ê-ren-bua chẳng những không làm cho gã phấn khởi mà chỉ càng làm cho gã chua xót, như một câu an ủi vô tình của một người bạn quá độ lượng và xã giao. 

Lòng tin của gã thực đã mềm yếu đi từ một năm nay rồi ư? Tấm nhiệt tình của gã đối với cuộc đời thực đã suy yếu hẳn đi rồi ư? Thật quả gã chưa đủ sức để tìm ngay được chân lý trong một lúc này, nhưng gã mang máng thấy nhất định chưa phải là như thế. Suốt một năm nay, gã không viết được một dòng nào, không phải vì gã đã mất cái đức tính cần cù, nhẫn nại của hai mươi năm làm thơ đã qua. Càng không phải gã không còn giữ được tình yêu tha thiết đối với con người, đối với cuộc đời như trước nữa. Gã thấy rõ rằng nhất định không phải vì như thế. 

Nhưng chính trong lúc này, ngồi đây, cố sức lục lọi tất cả những ngóc ngách của cái tâm hồn phức tạp của gã, gã cũng không thể nào tìm được cái nguyên do gì đã làm cho gã không viết được dễ dàng như trước nữa. Gã đi tìm cái nguyên do bí ẩn đó đã dằn vặt, hành hạ gã suốt một năm nay như anh chàng Sác-lô đi tìm hạnh phúc, mênh mông biển trời, càng đi xa càng lạc lối… 

Gã chỉ biết chưa bao giờ gã sống những ngày căng thẳng, chưa bao giờ trong con người của gã lại có nhiều xao động như trong một năm vừa qua. Những biến chuyển lớn lao, những sự việc vĩ đại của cái năm 1956 này như một cơn gió lốc thổi tung tất cả những lần cửa thâm nghiêm của cái tâm hồn vốn giàu nghị lực của gã, và làm rung chuyển tất cả những gì sâu kín nhất trong con người gã. Bây giờ nghĩ lại những ngày đã qua ấy gã còn cái bàng hoàng ngơ ngác của một người vừa vượt qua một cơn giông bão bất ngờ… 

Thực ra, ở cái tuổi của gã, cuộc đời chẳng có cái gì đáng gọi là bí ẩn hoặc khó hiểu nữa. Gã đã sống gần nửa đời người trong chế độ của thằng Tây… Cái quãng đời ấy không hề làm cho gã phải hối hận. Trái lại gã cho rằng chính cái quãng đời rẫy rụa để mà sống ấy đã đẽo sắc cái nhìn của gã, đã cho gã biết rõ nhân tình thế thái, hiểu thế nào là những cái buồn cháy ruột, những nỗi tủi nhục ê chề, làm cho tình cảm trong con người của gã càng phong phú, già dặn hơn. 

Gã nhớ lại cái ngày gã ra đời bằng cái nghề kế toán ở một sở Lục lộ nọ. Trong cái xã hội đen bạc ấy, gã cho cái nghề nhỏ mọn của mình là một nghề thanh bạch, ngoài vòng cương toả. Huống hồ gì gã lại còn vừa làm việc vừa viết báo, làm thơ. Viết báo để chửi đời, làm thơ để gửi gắm cái tâm sự u uất của mình. Thơ gã không xuất sắc lắm, nhưng cũng đăng hết báo này sang báo khác, ba kỳ cũng chẳng ai lạ gì cái tên nhà thơ họ Đỗ. Và gã cho rằng như vậy là đã thừa sức hơn đời. Những lúc cao hứng, trước mặt vợ con và các bạn bè đồng sự thân tín, gã thường tự ví mình như Cao Bá Quát. Tuy rằng không có cái khí phách khởi binh làm việc nghĩa như Chu Thấn, nhưng ít nhất cùng giữ được cho mình cái chí khí của một nhà thơ chân chính. Cái lối sống “kẻ sĩ”của gã đưa đến cái kết quả là gã bị mất việc và phải về làm thầy giáo hồ lơ ở một huyện xép. Giữa lúc cuộc đời của gã tưởng chừng như đã rơi vào chốn u tì, không còn hi vọng gì nữa thì cách mạng bùng nổ. Gã vác bút đi tham gia cách mạng. Gã gặp cách mạng chẳng khác gì hàn sĩ gặp hộ rồng mây: mười năm kháng chiến, lúc phong trần, khi vinh hiển, dù có những phen áo một manh, quần một chiếc, xót dạ ăn rau trừ bữa, lội suối trèo đèo, gã vẫn một lòng một dạ trung thành với lý tưởng. 

Lúc bấy giờ, gã làm công tác ở một cơ quan tuyên truyền nọ, vừa lãnh đạo phong trào, vừa sáng tác. Thơ gã làm ra, chính gã cũng không lấy gì làm hài lòng cho lắm. So với trước, gã xét ra tuy có thạo tay, dễ viết hơn: một việc đóng thuế, một câu chuyện dân công… cái gì phút chốc cũng có thể thành thơ tất cả. Nhưng không khỏi có lúc gã đột nhiên thấy có một cái gì vướng mắc trong lòng, có một cái gì gượng gạo trên lời thơ. Thậm chí có khi đọc thơ mình gã lại có cái cảm tưởng như đọc thơ ai, chẳng phải là mình. Nhưng rồi gã lại tự nhủ: 

“Ôi! Chẳng qua đó là cái nghiệp chướng còn xui ta lưu luyến những tàn tích cũ, phải đấu tranh vứt bỏ nó đi!” 

Thế rồi gã đấu tranh được, vất bỏ được những tàn tích cũ. Gã sống những ngày thư thái, thấy như trên đời này không có điều gì đáng phải suy nghĩ, phải băn khoăn nữa. Thấy những cấp lãnh đạo khen gã “lập trường dứt khoát… thơ phục vụ được phong trào”, mỗi ngày mỗi được trên “tín nhiệm”, giao cho nhiều trọng trách, gã thấy mình quả là sung sướng hầu như đã đạt được mọi ý nguyện bình sinh. 

Mười năm kháng chiến và một năm hoà bình, chầy chật, vất vả rồi cũng qua. Tóc gã đã hoa râm, sức đã yếu, chân thận cũng đã suy, đêm thức khuya đã thấy nhức lưng lắm rồi. Nhưng nhìn vào cuộc đời xung quanh gã thấy toàn một cảnh tượng “bốn bề âu ca thái bình”, con đường đi đến tương lai toàn là một vẻ “thênh thang tám thước” chỉ đi là đến. Và lòng gã nhẹ lâng lâng, vô cùng lạc thú, cơ hồ không có gì đáng phải băn khoăn nữa. 

Thế mà không ngờ cái tâm hồn yên tĩnh của gã giữa cái tuổi 50 này lại phải trải qua một trận biến thiên như thế này nữa. 

Đầu năm nay, gã được cơ quan phái đi cải cách. Hôm ra đi, vị đại diện cơ quan ân cần căn dặn: đi là một cơ hội tốt để lấy tài liệu sáng tác, nhưng chủ yếu là để cải tạo tư tưởng. Đã hai thứ tóc trên đầu mà lại còn phải đi “cải tạo”, gã không lấy gì làm phấn khởi. Nhưng nghĩ đến ý thức tổ chức, nghĩ đến nhiệm vụ vĩ đại mà cấp trên giao cho, gã lại hăng hái từ biệt vợ và bà con lên đường. Bốn tháng ở nông thôn, tuy công tác không có gì xuất sắc, nhưng gã tự xét đã tận tuỵ làm tròn nhiệm vụ. Sổ tay sáng tác của gã cũng chẳng ghi được một dòng nào. Nhưng gã kiêu hãnh vì đã làm đúng như lời dặn của cấp trên: cải tạo tư tưởng là chính. Gã còn kiêu hãnh vì được tham gia một trận đấu tranh long trời lở đất chưa từng có trong lịch sử mà gã là một chiến sĩ trong đoàn quân chiến đấu. Gã lại còn kiêu hãnh được sống những phút cảm động chưa từng có trong đời gã. Ôi, biết bao nhiêu lần gã đã rơi nước mắt khi dự những buổi tố khổ của nông dân, bao nhiêu lần gã đã bồi hồi xúc động khi đi ba cùng với cốt cán. Tất cả những cảm xúc mới mẻ ấy làm cho gã thấy con người của mình gắn bó với cuộc đời, với cách mạng hơn lên. Nhưng một mặt cũng làm cho gã ngợp đi, cuộc sống vươn lên những chiều vĩ đại quá tầm con mắt bé nhỏ của gã…Và cứ như thế, dù không ghi được một dòng tài liệu nào (gã tự nhủ: ghi làm thế nào cho chứa hết được tất cả cái vĩ đại và thiêng liêng của cuộc đời!) gã vẫn thấy trong lòng vô cùng yên ổn. Có những đêm không ngủ, gã nằm lơ mơ nghĩ đến bài thơ thật là vĩ đại ca ngợi những cái vĩ đại của cách mạng mà gã sẽ viết gần đây… Gã phấn khởi sống với mộng tưởng êm đềm ấy. 

Nhưng đùng một cái giữa bước ba đợt công tác, gã đọc báo và lần đầu tiên được biết những tin tức về đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô. Lão bồi hồi đọc những nhận định của đại hội về Stalin. Bình sinh, đó là lần đầu tiên gã thấy có một sự đổ vỡ trong lòng. Chẳng phải chỉ là bàng hoàng, kinh ngạc, gã còn thấy đau xót như có ai đó xúc phạm đến ngay chính con người của gã. Ôi! Stalin vĩ đại đến như thế mà còn có sai lầm, thì đến cái thân phận bé nhỏ như của gã thì phỏng còn có nghĩa lý gì ở trong trời đất? 

Mang cái tâm sự ngậm ngùi ấy, nhà thơ họ Đỗ trở về cơ quan. Chân ướt chân ráo gã bước vào trụ sở, tay bắt mặt mừng, chuyện đấu tranh anh dũng chưa kịp giở ra, một anh bạn đã chỉ ngay vào cái huy hiệu gã đeo ở ngực mà quắc mắt cười: 

“Đánh bao nhiêu người, bắt bao nhiêu người, khai thực với anh em rồi anh em tha cho!” 

Câu nói đùa của ông bạn làm gã giận tái người đi. Nhưng gã vẫn mỉm cười, kiêu hãnh nghĩ thầm: 

“Bốn tháng long trời lở đất, chúng nó ngồi đáy giếng đâu biết được trời cao.” 

Nhưng thái độ quân tử của gã cũng không đi đến đâu hết, và sự thực vẫn cứ nhất định là sự thực. Khắp nơi người ta bàn tán xôn xao về những sai lầm của đợt 5 cải cách ruộng đất. Gã đi chỗ này chỗ khác lắng nghe, ngạc nhiên như nghe những chuyện cổ tích ly kỳ, vô cùng mới lạ… 

Nói của đáng tội, thực ra cái cảm tính của một nhà thơ lâu năm như gã không phải là không nhạy thính. Ngày còn ở xã, chính gã cũng đã đôi khi cảm thấy có những điều “không được tốt”, những điều ngang trái. Nhưng gần mười năm nay, gã đã trót vô tình tạo lấy cho mình cái triết lý lạc quan không điều kiện, phục tùng vô điều kiện (ôi! biết bao nhiêu là thứ tuyệt đối vô điều kiện trong đời gã!) mất rồi! Gã sợ phải thấy cái xấu, sợ suy nghĩ, sợ động chạm, sợ đổ vỡ. Gã như người đi đêm, nơm nớp không dám quay lại đằng sau, luôn luôn sợ một bóng ma hiện hình trong bóng tối. Gã như con đà điểu chui đầu vào hốc đá khỏi nhìn thấy những cảnh đau lòng xảy ra trước mắt. 

Minh hoạ của Bùi Xuân Phái
Và lúc này đây, khi sự thực đã trở nên hiển nhiên trước mắt, bên tai gã, sau cái phút choáng váng đã qua, gã bỗng vụt thấy hằn học như có ai lừa dối gã, có ai chơi xỏ gã, và cả cái cuộc đời “âu ca thái bình” này xưa nay vẫn hiền lành, phúc đức đối với gã nay cũng vùng cả dậy để xoay gã, không còn chiều ý gã một tý nào nữa. Lần thứ hai, gã lại thấy có một cái gì rạn vỡ trong lòng. Những đêm không ngủ, gã ngồi trước bàn viết, không viết nổi một dòng. Gã cầm bút mà có cái chán ngán của người thí sinh trước giờ đánh chuông, hết hạn nộp bài, thử lại một cách tuyệt vọng bài tính đã biết là sai bét của mình. Gã biết rõ rệt với cái lối nhìn đời tươi đẹp vô điều kiện của gã, bài thơ vĩ đại của gã về cải cách ruộng đất tuy chưa viết cũng đã căn bản thất bại rồi! 

Giữa lúc ấy, những tin ở đâu trên thế giới ùn ùn kéo về, thế sự mỗi ngày chừng lại thêm rắc rối. Gã cố làm ra vẻ bình tĩnh nhưng thật trong thâm tâm, gã chưa bao giờ thấy bối rối bằng lúc này. Gã ít nói, nét mặt lầm lì, bí mật. Nhưng thực ra, gã không lúc nào ngồi yên được một chỗ, trong bụng dạ như có cái gì rạm rực, không ra buồn, cũng không ra lo, một thứ sốt ruột vô duyên cớ. Trước kia, muốn quên sự đời gã thường vùi đầu vào sách. Bây giờ gã nhìn vào sách như để nhìn quảng cáo, chữ nghĩa loang loáng truớc mắt, nhạt nhẽo vô vị lạ thường. Đêm đêm gã lại kiên nhẫn ngồi vào bàn viết làm thơ… Không viết về cải cách ruộng đất thì gã đã có sẵn trong óc từ một năm nay hàng chục đề tài khác nhau, nào là đấu tranh thống nhất, nào là kiến thiết miền Bắc… và cả sự ái tình thơ mộng nữa, đề tài nào cũng phơi phới hướng đi lên, phấn khởi và quyến rũ như nhau. Nhưng cái hồn thơ của gã dạo này nó bất thường như một chiếc săm xe đạp hỏng van. Cảm xúc dồn dập, ứ đầy là như thế, nhưng cứ hễ gã cầm bút định viết thì vụt một cái nó đã xẹp đi và tiêu tan đi đằng nào tất cả. Nhưng dòng chữ dập xoá chết ngay trên trang giấy như những cái thai non ngày non tháng. Gã có cái cảm tưởng trong tâm hồn gã như có một cái gì khập khễnh, một cái gì thiếu hụt… Cái gì ấy, gã nghĩ mãi vẫn không hiểu được nó là cái gì. 

Cứ như thế gã sống những ngày dằn vặt, khổ sở, mắt sâu, má tọp hẳn đi. Đêm đêm vợ gã giật mình thức giấc hoảng hốt thấy chồng ú ớ nói mê, miệng lầm bầm những câu nói kỳ dị chẳng rõ là đọc thơ, hay cãi cọ với ai… Và gã nhất định không đi đâu, ngoài hai buổi đến cơ quan. Hễ về đến nhà là gã đóng chặt cửa buồng nằm sù sụ một mình trên chiếc ghế vải, y hệt một cuồng sĩ xa lánh cuộc đời. 

Nhưng cuộc đời không buông tha gã. Cuộc đời đến đấm cửa buồng gã, đấm vào mắt, vào tai, dựng gã dậy. Gã đọc tất cả các thứ báo, chăm chú ngấu nghiến như một người bệnh thèm ăn của độc. Những bài phê bình, tranh luận trên báo làm gã lặng người đi. Nhưng dạo này, đã quen với những “biến cố” ở trên đời, gã đã bình tĩnh hơn – gã lẩm nhẩm lý luận để tự xác định cho mình một thái độ. Từ ngày cảm thấy cái triết lý “lạc quan vô điều kiện” của gã lung lay quá lắm rồi, gã đã bắt đầu tập suy nghĩ, tập lý luận một cách “tự lực cánh sinh” như thế. Nhưng lý luận cũng không đưa gã đến một chân lý nào hết. Gã thấy ghét cả những người làm ra sai lầm lẫn những người phê bình sai lầm. 

“Ôi! Làm sai lầm là xấu, những nỡ đem khuyết điểm mà bô bô lên trên báo thế kia thì còn xấu gấp mười.” 

Gã ghét cả đôi bên, vì gã cho rằng hai bên đều làm cho cuộc đời trở nên xấu xa, rắc rối; cả hai cùng là thủ phạm làm tổn thương đến cái triết lý lạc quan tuyệt đối cao thượng của gã. Và với cái ý nghĩ ấy gã chép miệng tự đặt cho mình một lập trường “ngoài vòng cương toả chân cao thấp” mà lúc này gã cho là hợp thời hơn bao giờ hết. 

Khốn nỗi cái “lập trường” ấy của gã cũng chả đứng vững được bao lâu. Vì trong khi gã “ngoài vòng” như thế thì những người xung quanh gã vẫn cãi nhau, vẫn làm thơ. Ừ thì họ cãi nhau mặc họ. Họ bàn trăm hoa đua nở cũng mặc họ (cái năm làm thơ này của gã chỉ mong được một hoa cũng là quá đủ rồi!) Nhưng cứ nghĩ rằng trong khi gã đang bí như trẻ con ăn phải chuối chát như thế, mà thiên hạ vẫn có thể nhơn nhơn làm thơ như bổ củi thì gã không tài nào chịu được. Mà làm thơ thế nào? Toàn là một loạt thơ không vần, thơ tự do, thơ leo thang cứ rối như nếp lộn tẻ, rặt là một giọng thơ ngông nghênh, bố láo, xem trời bằng vung! Thế mà gọi là trăm hoa ư? Thế mà gọi là hiện thực phê bình ư? Mệt quá, mệt quá lắm. Thà rằng cứ một hoa, cứ văn nghệ một chiều, cứ là “tô hồng” như cũ, cứ sùng bái cá nhân cho nó đơn giản cái sự đời! 

Và ghét thơ, ghét cả đến người, gã đâm ra giận cá chém thớt. Gã chưa lúc nào dám nói ra miệng – ôi chào, bây giờ cái phong trào nó thế, được mưa thì cóc nhái gẩy đàn – nhưng trong thâm tâm, gã chúa ghét mấy cái thằng làm thơ ít tuổi nhâng nháo ấy. Cái sắp trẻ tuổi ấy đi đến đâu thì ăn to, nói bạo, hoa chân, múa tay, toàn một bọn lấc cấc “vào chùa gọi bụt bằng anh”, cơ hồ chẳng còn biết kiêng nể ai! Nói của đáng tội, cũng có khi gã thấy thinh thích cái lối ăn thật nói thẳng của chúng nó. Chúng nó bây giờ sống như cái mũi tên bắn ra khỏi dây là cứ lao đi vun vút, chẳng đắn đo e dè gì cả. Gã vẫn nghĩ: giá như được sống như thế thì mới thật là thoả chí. Nhưng rồi suy hơn tính thiệt, nhất là lúc ngồi vào bàn, vợ kêu con khóc, thơ chẳng viết thành câu, gã lại cáu với chúng nó, gã tự nhủ: 

“Không, không thể được, chúng nó còn trẻ. Mà tuổi trẻ thường thì khinh bạc, xốc nổi, phũ phàng. Ta không thể bắt chước chúng nó được.” 

Hừ, đành rằng bây giờ như sức gã mà mơ tưởng viết nên những cái gì thật là vĩ đại ca ngợi cho hết cái vĩ đại của cuộc đời, thì nghĩ cho cùng tay với cũng chẳng đến nơi nữa. Nhưng mà lại hạ mình đi theo thời thượng làm thơ triết lý, thơ tư tưởng, thậm chí lại còn những là phê bình với đả kích thì thôi thôi, thà rằng không viết lách gì nữa thì thôi. Chẳng gì gã cũng đã hai thứ tóc trên đầu, mang trên vai hơn hai mươi năm sáng tác, theo đuôi “chúng nó” thì còn ra cái thể thống gì. 

Nhưng thế tất gã cũng phải có một con đường thứ ba chứ? Con đường thứ ba ấy là gì? 

Người thi sĩ già họ Đỗ, trong cái đêm cuối cùng của một năm này, vẫn chưa tìm ra được câu trả lời cho cái câu hỏi nó đang định đoạt cả một cuộc đời sáng tác của gã. 

Nhưng lần đầu tiên, hôm nay gã đã thấy rõ ràng rằng nếp sống, nếp nghĩ, nếp cảm xúc và cả con đường nghệ thuật của gã ngày mai không thể giống như hôm qua nữa. Nó không thể là con đường ve kêu, chim hót êm đềm, bằng phẳng, rợp bóng mát của chính sách và “ấm áp ánh mặt trời của vị thủ trưởng” nữa. Ôi! Từ giã nếp tâm hồn cố hữu, từ giã con đường cũ thân yêu ấy, một lần này nữa, gã không thể nào không thấy lòng đau như cắt, không thể nào không bàng hoàng như vừa trong gian phòng kín cửa bước ra giữa ánh mặt trời, đột nhiên thấy mình quá đỗi tự do, quá đỗi bơ vơ và lạc lõng. 

Nhưng dầu sao, trong đêm nay gã đã thấy từ đây gã không thể nào sống dễ dãi như trong mười năm qua được nữa. Chính gã, vâng chính gã, một khi hiểu rõ mình, gã cũng đã thấy chán ngán với tất cả các thứ “tuyệt đối vô điều kiện” nó đã ràng buộc gã trong bao nhiêu lâu. Cái triết lý đơn sơ và dễ dãi ấy đã cho gã được sống bao nhiêu năm trờì mơ ước êm đềm quyến rũ. Chính những mơ ước ấy thực cũng đã góp phần nâng đỡ cho hai bàn chân gã đủ sức bước theo cách mạng. Thực cũng đã đem đến cho gã nhiều ước vọng khao khát làm cho cuộc đời của gã so với cuộc đời tẻ nhạt, ngạt thở xưa kia, trở nên đáng sống và đẹp đẽ gấp nghìn lần. Tin tưởng đã cho gã sức mạnh và làm cho gã lớn lên. Nhưng một mặt khác chính lòng tin một chiều, lâu ngày trở nên một thứ mê tín ấy đã làm cho gã bé đi và gây cho gã một tâm lý lười biếng, ỷ lại. Gã bước theo cuộc đời, như một chú bé ngoan nắm vạt áo mẹ hiền. Là một nhà thơ, “kỹ sư của tâm hồn”, gã đã biến thành một người cung văn ê a chỉ ca ngợi cuộc đời một cách vô tư dễ dãi. 

Ôi trong cái đêm cuối cùng của cái năm thứ năm mươi của đời gã, cái chân lý ấy đến với gã một cách đột ngột làm sao! Gã thấy hình như gã đã khám phá được nguyên nhân những khó khăn của mình trong sáng tác hơn một năm gần đây. Đó là sự mâu thuẫn giữa sự thực của cuộc đời với cái triết lý quá đơn sơ của gã, cái nhìn sai lệch của gã trước cuộc đời. Và cái điều thiếu hụt mà gã thường cảm thấy từ lâu trong con người của gã phải chăng đó chính là lòng tự tin, tự mình làm chủ lấy mình, dám suy nghĩ, dám phê phán, dám nói lên những tiếng nói sâu kín nhất của lòng mình, nói lên sự thực để góp phần tích cực vào cuộc đời. 

Điều khám phá ấy làm cho gã ngậm ngùi xót xa. Lại bắt đầu một nếp sống, bắt đầu xây dựng một tâm hồn vào cái tuổi năm mươi này, điều đó có thể nào không làm gã buồn cho được. Nhưng đồng thời gã cũng thấy tràn ngập trong lòng một niềm tự hào, kiêu hãnh, gã tự nhủ: 

“Bắt đầu cuộc đời vào tuổi hai mươi chỉ là một việc thường tình. Lại bắt đầu cuộc đời vào tuổi năm mươi, đó mới là dũng cảm.” 

Và tự nhiên gã cảm thấy mình quả là dũng cảm. Câu nói của Ê-ren-bua: “Người viết văn không biết tuổi già…” lúc này dội lên kiêu hãnh trong lòng gã, và gã thấy như đó là lời nói của chính mình. 


Ngoài cửa sổ mưa mùa xuân vẫn đổ bụi một màu trắng bạc. Nhà thơ họ Đỗ nhìn đồng hồ, kim đã chỉ 4 giờ sáng. Cái đêm cuối năm này sao mà ngắn ngủi lạ. Trên bàn viết, tờ giấy vẫn trơ trọi một giòng chữ “Bài thơ cuối năm”; cái đầu đề tô đậm nét hằn lên trang giấy như một rặng núi giữa chân trời bao la. 

Nhưng lúc này gã không thấy trong lòng còn có cái cảm giác chênh vênh, mờ mịt nữa. 

Gã đã có một cái nhìn mới đối với cuộc đời, một thái độ mới đối với chính con người của gã. Cái “triết lý” mới ấy của gã chưa có gì là rõ rệt, chỉ mới mờ nhạt như ánh bình minh một đêm về sáng, nhưng cũng đủ để cho gã yên tâm và tìm một hướng đi ngày mai. 

Bài thơ cuối năm của gã trong cái đêm cuối năm này vẫn chỉ là một dòng chữ trên giấy, như một con tàu cạn nước nằm trơ trên bãi. Nhưng gã đã bắt đầu cảm thấy tâm hồn gã phơi phơi, dập dồn cái hơi thở rạo rực của biển khơi. Ôi! Đã lâu lắm hôm nay gã mới thấy tâm hồn mình có cái say sưa rạo rực hôm nay. 

Bài thơ cuối năm đã chết trên tờ giấy. Nhưng những bài thơ của một năm sắp đến, gã đã thấy như đang bắt đầu trong tâm hồn gã. Gã tắt đèn, đi ra ngoài hiên. Một thứ hương trầm quyện trong gió sớm làm cho gã nhớ đến cái tết trước mắt. 

Một năm sắp bắt đầu. Người thi sĩ già ấy đưa bàn tay gầy gò lên vuốt nhẹ làn tóc hoa râm, và như thấy mình trẻ lại một nửa cuộc đời trong buổi sáng đầu tiên báo hiệu mùa xuân này. 

Một đêm cuối năm 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét